động của các ngân hàng trên thị trường Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á sẽ đóng góp thêm vào kho tàng học thuật bằng chứng thực nghiệm về vấn đề này ở các quốc gia mới nổi với những đặc thù riêng, từ đó giúp mở rộng thêm hiểu biết về vai trò của cấu trúc sở hữu ở các thị trường mới nổi và đưa ra các hàm ý hữu dụng về mặt chính sách.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xuất phát từ tính cấp thiết của mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tại Việt Nam cũng như một số quốc gia Đông Nam Á. Mục tiêu nghiên cứu sẽ được cụ thể hóa thành các câu hỏi nghiên cứu sau:
1) Sở hữu nhà nước có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng?
2) Sở hữu nước ngoài có tác động như thế nào đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng?
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện trên mẫu các ngân hàng đã niêm yết tại Việt Nam cũng như một số quốc gia Đông Nam Á giai đoạn từ năm 2007 đến 2015 nhằm củng cố tính vững của nghiên cứu. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ cơ sở dữ liệu Datastream của Thomson Reuters.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 1
- Lý Thuyết Về Cấu Trúc Sở Hữu Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Bằng Chứng Thực Nghiệm Về Mối Quan Hệ Giữa Cấu Trúc Sở Hữu Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng
- Thực Trạng Về Cấu Trúc Sở Hữu Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngành Ngân Hàng Việt Nam
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy đa biến trên dữ liệu bảng với việc lựa chọn giữa hai phương pháp hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các phương pháp kiểm định và phân tích thống kê khác.
1.5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Như đã đề cập ở trên, tại Việt Nam, cấu trúc sở hữu nói chung và hai loại hình sở hữu cụ thể là sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài đóng vai trò quan
trọng đối với hệ thống ngân hàng, và do đó, có thể tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, nghiên cứu về vai trò của cấu trúc sở hữu đối với hiệu quả hoạt động của các ngân hàng là một vấn đề mang tính cấp thiết. Kết quả đến từ nghiên cứu này có ý nghĩa trên cả khía cạnh học thuật và thực tiễn. Ở khía cạnh học thuật, đề tài đóng góp bằng chứng thực nghiệm về vai trò của sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài đối với hiệu quả của các ngân hàng ở các thị trường mới nổi. Ngoài ra, ở khía cạnh thực tiễn, các kết quả từ đề tài giúp đưa ra các cơ sở cho các kiến nghị và hàm ý về mặt chính sách liên quan đến cấu trúc sở hữu của hệ thống ngân hàng nhằm phát triển bền vững hệ thống tài chính, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẤU TRÚC SỞ HỮU VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại
2.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
Lịch sử đã chứng minh sự phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường trong thời buổi toàn cầu hóa, hệ thống ngân hàng thương mại đã biến đổi mạnh mẽ từ những hệ thống ngân hàng giản đơn, sơ khai ban đầu nay đã trở thành những ngân hàng hiện đại, những tập đoàn tài chính khổng lồ, đa quốc gia. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại, tuy nhiên về mặt tổng quan thì ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm với khu vực đầu tư của nền kinh tế. Nói một cách cụ thể thì ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nhận tiền gửi từ các thực thể trong nền kinh tế, sau đó thực hiện các nghiệp vụ cho vay và đầu tư vào các tài sản có khả năng sinh lời khác, đồng thời thực hiện cung cấp đa dạng các danh mục dịch vụ tài chính, tín dụng, thanh toán cho các thực thể trong nền kinh tế.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính có vai trò quan trọng của nền kinh tế. Vai trò của các định chế này có thể tóm lược trên các khía cạnh sau:
- Trước hết, với vai trò là trung gian tài chính, ngân hàng thương mại thực hiện việc chuyển các khoản tiết kiệm thành các khoản tín dụng cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh thực hiện các hoạt động đầu tư. Đồng thời, ngân hàng thương mại là một trong những thành viên quan trọng nhất của thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền trung ương và địa phương phát hành để tài trợ cho các dự án và chương trình công cộng. Ngoài ra, ngân hàng thương mại cũng là một trong những tổ chức cung cấp vốn lưu động, vốn trung hạn và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp.
- Thứ hai, với vai trò thanh toán, ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử...
- Với vai trò người bảo lãnh, ngân hàng thương mại cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán.
- Với vai trò đại lý, các ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng quản lý và bảo lãnh phát hành hoặc mua lại chứng khoán.
- Cuối cùng với vai trò thực hiện chính sách, các ngân hàng thương mại còn là một kênh quan trọng để thực thi chính sách vĩ mô của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
2.1.2. Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, hiệu quả có thể được hiểu ở hai khía cạnh như sau:
i. Khả năng biến đổi các đầu vào thành các đầu ra hay khả năng sinh lời hoặc giảm thiểu chi phí để tăng khả năng cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
ii. Xác suất hoạt động an toàn của ngân hàng.
Như vậy, hiệu quả là phạm trù phản ánh sự thay đổi công nghệ, sự kết hợp và phân bổ hợp lý các nguồn lực, trình độ lành nghề của lao động, trình độ quản lý... Hiệu quả hoạt động phản ánh quan hệ so sánh được giữa kết quả kinh tế và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được chia làm hai nhóm đó là hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối:
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối (hiệu quả hoạt động = kết quả kinh tế - chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó) cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại theo cả chiều sâu và chiều rộng. Tuy nhiên loại chỉ tiêu này trong một số trường hợp lại khó có thể thực hiện so sánh được. Ví dụ, những ngân hàng có nguồn lực lớn thì tạo ra lợi nhuận lớn hơn
những ngân hàng có nguồn lực nhỏ, nhưng không có nghĩa là các ngân hàng quy mô lớn lại có hiệu quả lớn hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Như vậy, hiệu quả tuyệt đối không cho biết khả năng sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các đầu vào.
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tương đối có thể được thể hiện dưới dạng tĩnh (hiệu quả hoạt động = kết quả kinh tế/chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó hoặc dạng nghịch đảo, tức hiệu quả hoạt động = chi phí/kết quả kinh tế) hoặc dưới dạng động hay dạng cận biên (hiệu quả hoạt động = mức tăng kết quả kinh tế/mức tăng chi phí). Những chỉ tiêu này rất thuận tiện so sánh theo thời gian và không gian như cho phép so sánh hiệu quả giữa các ngân hàng có quy mô khác nhau, hay so sánh giữa các thời kỳ khác nhau. Tóm lại, quan điểm về hiệu quả là đa dạng, tùy theo mục đích nghiên cứu có thể xét hiệu quả theo những khía cạnh khác nhau. Phần dưới đây sẽ trình bày chi tiết về một số thước đo hiệu quả hoạt động phổ biến thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại cũng như các thước đo sẽ được sử dụng trong luận văn này.
Các chỉ số tài chính là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong đánh giá, phân tích và phản ánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở cấp ngành và cấp quản lý của chính phủ. Mỗi chỉ số cho biết mối quan hệ giữa hai biến số tài chính, qua đó cho phép phân tích và so sánh giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng và phân tích xu hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Có nhiều loại chỉ số tài chính được sử dụng để đánh giá các khía cạnh hoạt động khác nhau của một ngân hàng, các chỉ số tài chính này bao gồm các tỷ số phản ánh khả năng sinh lợi, các tỷ số phản ánh hiệu quả hoạt động và các tỷ số phản ánh rủi ro tài chính của một ngân hàng.
2.1.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời
Các chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh –theo thông lệ quốc tế thường được phản ánh thông qua các chỉ tiêu sau: tỷ lệ thu lãi biên
ròng, tỷ lệ thu ngoài lãi biên ròng, tỷ lệ thu nhập hoạt động biên, hệ số thu nhập trên mỗi cổ phiếu, tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên tổng vốn chủ sở hữu. Cách tính toán các chỉ tiêu này được trình bày cụ thể dưới đây.
Tỷ lệ thu lãi biên ròng =
Tỷ lệ thu lãi ngoài biên ròng =
Tỷ lệ thu nhập hoạt động biên =
EPS =
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản =
Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu =
Tổng thu nhập – tổng chi phí
Tổng tài sản có sinh lời (hoặc tổng tài sản có) Tổng thu nhập ngoài lãi – tổng chi phí ngoài lãi Tổng tài sản có
Tổng thu hoạt động – tổng chi phí hoạt động Tổng tài sản có
Lợi nhuận sau thuế
Tổng số cổ phiếu thường hiện hành Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản có Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ thu lãi biên ròng, thu ngoài lãi biên ròng và thu nhập hoạt động biên phản ánh năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu từ các khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi trả lãi tiền gửi, những khoản vay trên thị trường tiền tệ, tiền lương nhân viên và phúc lợi). Tỷ lệ thu nhập lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp. Trong khi đó, tỷ lệ thu ngoài lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành
thiết bị và chi phí tổn thất tín dụng). Còn thu nhập trên cổ phiếu đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện hành đang lưu hành.
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản là một chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tính hiệu quả quản lý. Nó chỉ ra khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng, nếu mức tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản thấp có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng cao quá mức. Ngược lại, mức tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản cao thường phản ánh kết quả của hoạt động hữu hiệu, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều tiết linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền kinh tế. Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng (tức là chấp nhận rủi ro để hy vọng có được thu nhập ở mức hợp lý). Chỉ tiêu này cũng được sử khá phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu. Ngoài ra, trong đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng còn xem xét mối quan hệ giữa chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần vì trên thực tế hai chỉ tiêu này phản ánh sự đánh đổi cơ bản giữa rủi ro và thu nhập. Một ngân hàng có thể có tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản thấp nhưng vẫn có thể đạt được tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần khá cao do việc sử dụng đòn bẩy tài chính lớn.
2.1.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập và chi phí
Với chiến lược tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng cách giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ nhân viên. Bởi vậy, các thước đo phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng và năng suất lao động của nhân viên gồm các chỉ tiêu sau:
- Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: là một thước đo phản ánh mối quan giữa đầu vào (tử số) và đầu ra (mẫu số) hay nói cách khác nó phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng.
- Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/Số nhân viên làm việc đầy đủ thời gian): phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng.
- Tổng thu hoạt động/tổng tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu hệ số này lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản (danh mục đầu tư) một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
2.1.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính
Ngoài việc quan tâm đến việc nâng cao giá trị cổ phiếu và đẩy mạnh khả năng sinh lời, thông thường trong hoạt động của mình các ngân hàng thương mại cũng thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ những rủi ro mà họ phải đối mặt. Cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng, nền kinh tế thế giới hiện nay cũng chứa đựng nhiều biến động. Điều này khiến các nhà quản trị ngân hàng tập trung nhiều hơn vào công việc kiểm soát và đo lường rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đó là: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro phá sản và rủi ro thu nhập. Từ đó hình thành nên một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả hoạt động dựa trên khía cạnh này.
- Tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu/tổng cho vay và cho thuê): chỉ tiêu phản ánh chất lượng của tín dụng, chỉ số này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng càng cao.
- Tỷ lệ cho vay (cho vay ròng/tổng tài sản): phản ánh phần tài sản có được phân bổ vào những loại tài sản có tính thanh khoản kém. Như vậy tỷ lệ này cho thấy, việc tăng cường sử dụng nguồn vốn vay rất có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu như nhu cầu rút tiền của công chúng tăng và chất lượng của các khoản cho vay giảm.
- Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể sẽ rơi vào tình trạng bất lợi và thua lỗ có thể xảy ra nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi quy