1.2.Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động giao nhận.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động giao nhận cho phù hợp với pháp luật quốc tế là nhiệm vụ vô cùng cấp bách đối với ngành giao nhận Việt Nam hiện nay. Trong những năm qua mặc dù đã có nhiều cố gắng xong hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến giao nhận vẫn còn nhiều điều bất cập. Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật chuyên ngành nào quy định về các quan hệ pháp lý nảy sinh trong hoạt động kinh doanh giao nhận.Đây là loại hình dịch vụ tổng hợp, quá trình hoạt động có liên quan đến sự quản lý của nhiều bộ, ngành như: giao thông vận tải, thương mại, hải quan, đo lường và kiểm định... Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản dưới luật hướng vào các vấn đề cụ thể cùng với luật làm cơ sở pháp lý cho các chủ thể tiến hành hoạt động và giải quyết các vấn đề phát sinh. Đồng thời sửa đổi những văn bản pháp luật đã có nhưng gây bất cập trong quá trình triển khai áp dụng. Bên cạnh đó các cơ quan quản lý nhà nước phải tìm hiểu thực tế hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong ngành để biết được những vướng mắc mà các doanh nghiệp gặp phải để kịp thời có những giải pháp khắc phục. Nhà nước cần tập hợp và công bố các loại giấy phép cần thiết, tiến hành rà soát lại toàn bộ thị trường giao nhận và đánh giá tổng thể thực tế áp dụng. Công tác xây dựng pháp luật phải được thay đổi theo hướng nâng cao chất lượng của luật pháp nhằm tạo ra hệ thống văn bản đồng bộ, có tính ổn định, có tính khả thi. Nhà nước cần nghiên cứu kỹ luật pháp quốc tế, vận dụng vào thực tế ở Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó trước khi ban hành văn bản pháp luật mới nên có sự trao đổi với doanh nghiệp, Hiệp hội đại diện để đảm bảo tính khả thi sau khi ban hành.
Một vấn đề nữa là lâu nay các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các nhà sản xuất của Việt Nam do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, cho nên có tập quán mua thì mua CIF, còn bán thì bán FOB. Vì vậy quyền được thuê tàu, thuê vận tải, rồi mua bảo hiểm đều thuộc về đối tác nước ngoài.
Chính vì thế các doanh nghiệp Việt Nam chưa có cơ hội phát triển các dịch vụ giao nhận kho vận... Chính phủ cần có biện pháp nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp giao nhận có nhiều cơ hội phát triển hoạt động kinh doanh của mình hơn nữa.
Nhu cầu phát triển hoạt động giao nhận là hết sức cần thiết, nhất là từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý, các hoạt động giao nhận phải đối mặt trước những trở ngại và khó khăn to lớn do sức ép cạnh tranh và trong điều kiện khối lượng hàng ủy thác giao nhận giảm mạnh. Vấn đề đặt ra cho ngành giao nhận là phải có chiến lược phát triển hợp lý, tìm ra hướng đi chính xác cho mình. Chính vì thế nhà nước phải định hướng cho sự phát triển, tiến hành xây dựng chiến lược và vận hành cơ chế quản lý của doanh nghiệp giao nhận phù hợp với quy luật nội tại và những điểm đặc thù của các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực cụ thể cũng như toàn bộ nền kinh tế đất nước. Tiếp tục và hoàn thiện các công cụ như thuế xuất nhập khẩu, quản lý ngoại tệ, chính sách tỷ giá hối đoái, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giao nhận.
1.3.Đẩy mạnh cải cách hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước.
Bộ máy kiểm tra, kiểm soát phải năng động, hoạt động có hiệu quả, không bị vô hiệu hóa bởi tình trạng quan liêu, tham nhũng, đơn giản hóa thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa. Hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải đơn giản hóa các thủ tục hành chính, cải tiến thủ tục quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ, các công ước quốc tế góp phần thúc đẩy giao lưu quốc tế và văn hóa giữa nước ta với các nước, giảm bớt nguy cơ tụt hậu với các nước trong khu vực và thế giới. Hiện quy trình làm thủ tục hải quan đã và đang được cải tiến, mặc dù vẫn còn gặp nhiều vướng mắc từ phía cơ quan quản lý cũng như từ phía doanh nghiệp, tuy nhiên đây cũng là một bước tiến trong công tác cải tiến thủ tục của nước ta. Các qui
định hải quan về giấy phép và phân định rõ trách nhiệm của Đại lý khai quan, chứng từ xuất nhập khẩu phải phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể là các nước ASEAN, khu vực châu Á...,tin học hóa thủ tục hải quan.
Điều đáng lưu ý là cơ chế quản lý gọn nhẹ nhưng cần chú trọng đến tính hiệu quả, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp nhằm đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật và sự công bằng trong kinh doanh. Thêm vào đó cần đẩy mạnh hoạt động chống buôn lậu và tham nhũng, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng trong sạch cho các doanh nghiệp giao nhận cạnh tranh lành mạnh.
1.4.Xây dựng tiêu chuẩn cho người kinh doanh dịch vụ giao nhận, rà soát lại hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận.
Có thể bạn quan tâm!
- Môi Trường Pháp Lý Và Chính Sách Của Nhà Nước.
- Thực Trạng Cạnh Tranh Của Các Doanh Nghiệp Kinh Doanh Dịch Vụ Giao Nhận
- Tăng Cường Đầu Tư Phát Triển Hệ Thống Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật.
- Cạnh tranh và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận - 10
- Cạnh tranh và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận - 11
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp giao nhận, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân nhỏ lẻ, manh mún đang dùng mọi thủ đoạn để giành giật khách hàng, có những biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy để có thể cạnh tranh được với các công ty nước ngoài, trước hết chúng ta phải chấp nhận sự sàng lọc về số doanh nghiệp hoạt động manh mún chụp giật trong nước. Yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan quản lý Nhà nước là phải rà soát lại hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận, ngay khâu đầu tiên phải có những điều kiện bắt buộc về vốn, về nghiệp vụ...đối với các doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh nhằm loại bỏ những doanh nghiệp không đủ tư cách kinh doanh, đảm bảo môi trường kinh doanh ổn định và bình đẳng cho sự phát triển của toàn ngành.
Trên thực tế ở nhiều nước, ngành giao nhận thường được hỗ trợ, đại diện, khuyến khích bởi các tổ chức quốc gia mà thông thường là các hiệp hội giao nhận. Các hiệp hội này được thành lập để chuẩn hóa hoạt động dịch vụ của ngành, hỗ trợ thông tin và đem lại nhiều lợi ích khác cho các thành viên. Ở Việt Nam hiện đã có Hiệp hội giao nhận kho vận (VIFFAS), và một trong những tài liệu quan trọng và đem lại nhiều lợi ích nhất cho các hội viên là
điều kiện kinh doanh chuẩn của Hiệp hội, trong đó quy định chi tiết nhiều điểm mà luật pháp và tập quán quốc tế không quy định rõ ràng. Tuy nhiên hiện nay số hội viên của Hiệp hội chỉ chiếm khoảng hơn 10% trong tổng số các doanh nghiệp giao nhận đang hoạt động. Vì vậy các điều kiện kinh doanh chuẩn của Hiệp hội là một căn cứ khi tiến hành xây dựng luật để đảm bảo tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận phải tuân thủ. Từ đó giúp nâng cao chất lượng dịch vụ và quản lý hoạt động giao nhận tốt hơn.
2. VỀ PHÍA HIỆP HỘI ( VIFFAS)
Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (Vietnam Freight Forwarders Association – VIFFAS) là một tổ chức tự nguyện liên kết của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận, kinh doanh kho hàng và tổ chức chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu, không phân biệt thành phần kinh tế, hợp tác, liên kết hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong công việ phát triển nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các hội viên trong các hoạt động giao nhận kho vận hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, trên cơ sở đó hội nhập với khu vực và thế giới.
VIFFAS được thành lập từ năm 1994 và hiện đã là tổ chức đại diện duy nhất của Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ và chính thức của Liên đoàn các Hiệp hội giao nhận kho vận quốc tế FIATA (International Federation of Freight Forwarder Association) và một số tổ chức giao nhận kho vận khác như Hiệp hội giao nhận Đông Nam Á (AFFA).
Trong những năm qua VIFFAS đã có những hoạt động tích cực đóng góp vào sự phát triển chung của ngành giao nhận kho vận Việt Nam. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế đất nước ngày càng mở cửa hội nhập đặt ra nhiều thách thức lớn cho ngành giao nhận, vai trò của Hiệp hội với tư cách là người đại diện cho các doanh nghiệp cần phải được phát huy hơn nữa. Cụ thể:
- VIFFAS cần tiếp tục phát triển hội viên với điều kiện thông thoáng để thu hút nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân tham gia Hiệp
hội, làm cho Hiệp hội là nơi tập trung trí tuệ nghề nghiệp, định hướng phát triển nghề nghiệp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các hội viên và cũng là nơi điều chỉnh mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các hội viên trong cộng đồng nghề nghiệp.
- Hiệp hội cần bám sát tình hình phát triển của ngành nghề giao nhận, những vướng mắc khó khăn của các hội viên. Trên cơ sở đó, kịp thời có các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về quản lý Nhà nước để có chính sách, quy chế, quy định về hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận phù hợp với tình hình hiện nay và hội nhập sau này, có nghĩa vụ đối với Nhà nước thoả đáng, đảm bảo kinh doanh có lãi và mở rộng, có chính sách thông thoáng trong hợp tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm khuyến khích doanh nghiệp mở rộng hoạt động ra nước ngoài, tăng cường hợp tác quốc tế.
- Có kế hoạch cụ thể và thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận, giúp họ tiếp cận với những kỹ năng và kinh nghiệm giao nhận trên thế giới nhằm khắc phục tình trạng hoạt động thiếu chuyên nghiệp và quy mô nhỏ như hiện nay. Thêm vào đó, Hiệp hội có thể liên kết với các tổ chức, trung tâm đào tạo quốc tế tổ chức thi và cấp chứng chỉ cho các học viên.
- Tổ chức in ấn các bản tin nghiệp vụ, án lệ về các vụ khiếu kiện trong giao nhận vận tải, những quy định mới về hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận theo luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế để phân phát cho hội viên. Tổ chức các buổi trao đổi khu vực về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, hợp tác, liên doanh về các dịch vụ cụ thể, đảm bảo quyền lợi của các hội viên, tránh cạnh tranh không lành mạnh ở thị trường trong nước.
- Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) cần năng động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là trong việc đào
tạo, gắn kết, thông tin, điều phối, hướng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trường nước ngoài. Không những thế, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc mở cửa thị trường giao nhận trong nước là một việc làm tất yếu. Điều đó sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam không còn nhận được sự bảo hộ từ phía Nhà nước nữa mà phải chịu sự cạnh tranh từ phía các doanh nghiệp nước ngoài. Bởi vậy Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam với tư cách là tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp phải đứng ra bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho hội viên trong các vụ khiếu kiện, đặc biệt là các vụ kiện của các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó giúp doanh nghiệp giao nhận trong nước yên tâm khi mở rộng hoạt động của mình ra thị trường thế giới.
3. VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP
3.1.Nghiên cứu mở rộng thị trường.
Hoạt động kinh doanh luôn diễn ra trên thị trường, chịu tác động và chi phối bởi thị trường. Kinh doanh dịch vụ giao nhận cũng không phải là ngoại lệ. Mở rộng thị trường, đa dạng hóa phạm vi kinh doanh chính là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng, từ đó tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Có thể mở rộng thị trường theo hai hình thức: mở rộng thị trường của doanh nghiệp theo chiều rộng và mở rộng thị trường theo chiều sâu.
Mở rộng thị trường theo chiều rộng chính là mở rộng thị trường theo phạm vi địa lý. Tính đến nay hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đã vươn ra thị trường quốc tế, nằm ở hầu hết các châu lục trên thế giới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam còn chưa khai thác như Mỹ, Mexico, Châu Phi, Trung Đông, Nam Mỹ.
Mở rộng thị trường theo chiều sâu là vẫn trong môi trường địa lý đó nhưng chú trọng đa dạng hóa phạm vi dịch vụ của doanh nghiệp để thu hút được nhiều khách hàng, đạt doanh thu hoạt động cao hơn nhằm khai thác triệt
để và giữ vững thị trường hiện có. Ngoài ra đa dạng hóa phạm vi dịch vụ còn giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Vì khi các dịch vụ được đa dạng hóa nếu một dịch vụ nào đó hoạt động bị suy giảm cũng không ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh chung của toàn công ty.
Hiện tại, thị phần giao nhận vận chuyển hàng hóa quốc tế do các doanh nghiệp giao nhận trong nước chiếm giữ vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé do việc vận chuyển hàng hóa hầu hết được chỉ định bởi các công ty giao nhận nước ngoài. Muốn mở rộng thị phần quốc tế, trước hết các công ty vận tải, doanh nghiệp giao nhận, người xuất khẩu và người nhập khẩu trong nước nên hợp tác với nhau. Người giao nhận là khách hàng rất tiềm năng của các doanh nghiệp vận tải và họ có thể mang lại một lượng lớn khách hàng cho người chuyên chở. Trước mắt, các doanh nghiệp vận tải trong nước nên tập trung vào việc phát triển đội tầu và mở thêm các tuyến tới các cảng lớn ở Đông Nam Á , Bắc Mỹ và Tây Âu. Người chuyên chở nên phối hợp với người giao nhận với mục đích là tận dụng tối đa cơ sở vật chất, trình độ, kinh nghiệm và các đại lý của người giao nhận. Doanh nghiệp giao nhận sẽ được hưởng những ưu đãi và được người chuyên chở đảm bảo giữ chỗ cho hàng hóa của mình khi có nhu cầu. Như vậy có thể nói là đôi bên cùng có lợi. Chất lượng dịch vụ nhờ đó cũng tốt hơn, đặc biệt là đến mùa xuất khẩu hàng hóa cao điểm.
Hơn thế, cần phải mở rộng mạng lưới giao nhận ở nước ngoài. Điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là mạng lưới giao nhận ở nước ngoài còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Hầu hết các công ty giao nhận lớn trên thế giới đều có các chi nhánh ở các nước để phục vụ cho việc vận chuyển hàng hóa được dễ dàng. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, do các doanh nghiệp giao nhận còn chưa đủ mạnh nên rất ít doanh nghiệp có các chi nhánh ở nước ngoài, nếu có cũng chỉ một vài chi nhánh mà chưa có được hệ thống các chi nhánh ở khắp các châu lục. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt
Nam cần tạo dựng cho mình một mạng lưới đại lý giao nhận ở nước ngoài bằng cách hợp tác với các công ty giao nhận ở các nước. Đây là một công việc hết sức quan trọng vì nếu không có đại lý ở nước ngoài, các doanh nghiệp không thể yên tâm gửi hàng đến người nhận vì không có đại lý đứng ra thu tiền cước nếu người gửi hàng yêu cầu cước trả sau, không biết luật pháp và quy định của nước người mua hàng. Nói chung sẽ là rất rủi ro khi doanh nghiệp giao hàng đến một nước mà mình không có đại lý. Chính vì thế mà việc tạo dựng một hệ thống đại lý rộng khắp trên các châu lục là một việc làm cần thiết để có thể phát triển hoạt động giao nhận của nước nhà.
3.2.Đa dạng hoá dịch vụ cung cấp cho khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ, dần xóa bỏ cạnh tranh không lành mạnh.
Ngày nay bên cạnh sự cạnh tranh về giá cả dịch vụ, doanh nghiệp ở các nước đều tập trung nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Do đó, cạnh tranh ngày nay không chỉ dừng lại ở giá cả mà còn là chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ giao nhận do rất nhiều yếu tố cấu thành như tốc độ phục vụ, thời gian xếp dỡ, vận chuyển nhanh chóng, giao hàng đúng địa điểm, đóng và dỡ hàng cẩn thận theo đúng quy định, giải quyết hợp lý các khiếu nại của khách hàng...
Các doanh nghiệp có thể phát triển dịch vụ giao nhận theo chiều rộng hoặc chiều sâu. Trong đó, phát triển dịch vụ theo chiều rộng là việc doanh nghiệp tăng cường cung cấp thêm các dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Phát triển dịch vụ theo chiều sâu là việc nâng cao hơn nữa chất lượng các dịch vụ của doanh nghiệp đồng thời đẩy mạnh khối lượng các dịch vụ mà doanh nghiệp đang cung cấp trên thị trường.
Các doanh nghiệp giao nhận của Việt Nam hiện nay vì nhiều lý do khác nhau như quy mô nhỏ, khả năng tài chính yếu, mạng lưới đại lý chưa mở rộng...nên rất ít doanh nghiệp có khả năng cung cấp cho khách hàng những dịch vụ trọn gói (door to door), dịch vụ lưu kho lạnh, kho chuyên dụng, dịch