Cạnh tranh và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận - 10

vụ tư vấn...Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp nên đầu tư về cơ sở vật chất để có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ đa dạng như dịch vụ gom hàng, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ cung cấp thông tin thị trường, đại lý khai hải quan...

Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận ở Việt Nam hiện nay, kể cả các doanh nghiệp có bề dày hoạt động hàng mấy chục năm được Nhà nước đầu tư về vốn, trang thiết bị kỹ thuật, về chính sách, về cả con người...chưa có doanh nghiệp nào có khả năng tham gia và thắng thầu những dự án giao nhận vận chuyển các công trình ở các nước khác, còn ở Việt Nam cũng chỉ đảm nhận được các công trình có quy mô nhỏ và vừa. Còn lại các công trình có quy mô lớn đều rơi vào tay các công ty giao nhận nước ngoài và doanh nghiệp trong nước chỉ làm nhà thầu phụ hay đại lý cho họ. Đó là bởi tên tuổi, kinh nghiệm, kỹ thuật, phương tiện của các công ty Việt Nam chưa thuyết phục được các nhà đầu tư. Muốn hội nhập được cùng bạn hàng khu vực, các công ty giao nhận trong nước phải tự hoàn thiện mình, tự đào tạo, nâng cao trình độ nghề nghiệp mới đủ năng lực để đứng vững trong tình hình thị trường. Ngày nay, người giao nhận hoạt động chủ yếu với vai trò như một người vận tải, nghĩa là họ cam kết giao hàng tại nơi đến thông qua việc cấp chứng từ vận tải của riêng họ cho người gửi hàng. Chứng từ đó là vận tải đơn thứ cấp (House Bill of Lading hoặc House Airway Bill), mặc dù trong thực tế họ thuê lại một hoặc nhiều người vận tải thực hiện một phần hoặc toàn bộ quá trình vận chuyển. Các chứng từ này nhất thiết phải được chuẩn hóa để tránh khỏi những sai sót không đáng có, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giao nhận được thuận lợi, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam đối với bạn hàng quốc tế.

Trong thời gian tới doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ hơn nữa, đầu tư công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,

tiếp thu các kinh nghiệm và quy trình tiên tiến của các nước trên thế giới. Chúng ta cũng có thể làm thầu phụ cho doanh nghiệp nước ngoài để học hỏi trình độ quản lý đến công nghệ, kiến thức, kỹ năng chăm sóc khách hàng của họ. Làm ăn theo lối chụp giật, lôi kéo khách hàng, cạnh tranh không lành mạnh, phá giá...chính là đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản không sớm thì muộn. Chỉ có cạnh tranh lành mạnh bằng chính chất lượng dịch vụ mình cung cấp mới tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững so với các doanh nghiệp khác, khẳng định được vị thế của mình trên thương trường. Từ đó thắng thế trong cạnh tranh.


3.3.Áp dụng các phương thức giao nhận tiên tiến, tiến tới cung cấp dịch vụ giao nhận trọn gói, ứng dụng logistics trong giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu.

Người giao nhận cần phải liên kết chặt chẽ với người bán hàng để tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của người mua; tiến tới cung cấp dịch vụ trọn gói (door to door). Khuyến khích việc sử dụng công nghệ thông tin trong họat động giao nhận. Thực hiện các phương pháp công nghệ tiên tiến như quản trị chuỗi cung ứng (supply chain management-SCM) hay giao hàng đúng thời điểm (JIT), trong thiết kế luồng vận tải nhiều chặng và sắp xếp các công đọan trong dây chuyền cung ứng dịch vụ. Để giảm thiểu chi phí, các doanh nghiệp giao nhận cần hoàn thiện hoạt động của mình, tiến tới ứng dụng hoạt động logistics trong giao nhận vận chuyển. Logistics là một chuỗi khép kín từ khâu nhận hàng từ người gửi hàng, tiến hành các nghiệp vụ cần thiết như đóng gói, bốc xếp, làm thủ tục giấy tờ, tổ chức chuyên chở và giao hàng cho người nhận hàng ở điểm đến cuối cùng. Đây là một chuỗi các dịch vụ tương đối phức tạp có tác dụng liên kết các hoạt động riêng lẻ thành một chuỗi liên tiếp, liền mạch mang lại những lợi ích tối ưu cho người giao nhận vận chuyển. Khi áp

dụng logistics trong hoạt động giao nhận vận chuyển thì các doanh nghiệp giao nhận nhất định phải có hệ thống kho vận của riêng mình, nên không mất tiền thuê kho bãi lưu trữ hàng hóa. Các lô hàng lẻ sẽ được thu gom và lưu kho thành một lô hàng lớn để được vận chuyển. Như vậy chi phí gửi một lô hàng sẽ giảm.

Mục tiêu của logistics là vận chuyển hàng đến đúng lúc (Just in Time), và không để hàng tồn kho, tức là phải đảm bảo tối thiểu hóa thời gian chờ đợi tại các điểm và tránh lưu kho. Do đó người cung cấp dịch vụ logistics phải sắp xếp lịch trình phù hợp cho hàng hóa được bốc ngay lên phương tiện vận chuyển và tới đích sẽ được dỡ ngay xuống giao cho chủ hàng, nên giảm thiểu được thời gian hàng phải nằm chờ tại kho hàng hay phương tiện vận tải, chủ hàng cũng như người giao nhận không phải tốn chi phí lưu kho hay người vận tải cũng không lo bị phạt chậm xếp dỡ.

Hơn nữa áp dụng logistics trong giao nhận còn giúp cho việc tiến hành thủ tục thông quan hàng hóa thuận tiện hơn. Người giao nhận có thể biết thông tin vể hàng hóa và có sự chuẩn bị sẵn về thủ tục cần phải làm. Khi hàng hóa về đến cảng thì các thông tin về lịch trình hàng, trạng thái hàng, vị trí của hàng đã được thông báo trước và khi hàng về thì thủ tục hải quan đã được hải quan nước sở tại nhận được và làm sẵn thủ tục thông quan. Như vậy giảm được thời gian “chết” trong khi chờ làm thủ tục giấy tờ, lưu kho bãi. Đồng thời người giao nhận lại chủ động được trong kế hoạch vận chuyển và giao hàng dễ dàng và nhanh chóng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.

Khi phương thức này được áp dụng, người giao nhận sẽ giảm thiểu được thời gian không hiệu quả và thời gian “chết” trong toàn bộ quy trình từ lúc đặt hàng, sản xuất hàng hóa đến bán hàng hóa. Thời gian để vận chuyển hàng hóa sẽ ngắn lại và chất lượng công việc sẽ tăng lên. Khách hàng sẽ tập trung toàn bộ năng lực và thời gian để sản xuất kinh doanh, mọi hoạt động

thuộc khâu phân phối sẽ giao cho người giao nhận từ A đến Z. Tất cả các thông tin về hàng hóa, người giao nhận sẽ cung cấp cho khách hàng.

Cạnh tranh và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận - 10

3.4.Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Trong giai đoạn hiện nay, người ta nhắc nhiều đến kinh tế tri thức mà trong đó con người là trung tâm. Giáo dục và rèn luyện con người luôn là biện pháp quan trọng hàng đầu trong mọi lĩnh vực. Nó xuất phát từ nguyên tắc coi trọng con người. Trong kinh doanh, việc thành hay bại của một doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào con người, vào chuyên môn và nhiệt huyết của họ. Người làm dịch vụ giao nhận là nhà tổ chức quy trình vận tải giao nhận. Họ phải lựa chọn phương tiện, người vận tải thích hợp để có hiệu quả kinh tế nhất. Điều đó đòi hỏi người làm dịch vụ giao nhận phải có trình độ nghiệp vụ giỏi, hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực của mình, phải có kiến thức về địa lý, thông hiểu luật lệ trong nước và quốc tế, nắm vững nghiệp vụ ngoại thương và phải biết sử dụng thành thạo các phương tiện thông tin điện tử. Thêm vào đó họ còn phải có sự hiểu biết về các lĩnh vực liên quan như hàng hải, ngân hàng, bảo hiểm...Do đó, đặc biệt phải chú trọng khâu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ công nhân viên.

Đề nghị mở các bộ môn và khoa chuyên ngành về giao nhận, logistics trong các trường đại học, cao đẳng kinh tế ngoại thương. Tìm kiếm các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các chương trình đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước. Phối hợp và tranh thủ hợp tác với các tổ chức FIATA, IATA và các tổ chức phi chính phủ khác để có nguồn kinh phí đào tạo thường xuyên hơn.

Về ngắn hạn các công ty, doanh nghiệp có thể thông báo cho Hiệp hội về nhu cầu đào tạo, các lĩnh vực quan tâm cũng như mời các chuyên gia kinh nghiệm đào tạo nội bộ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện nay đang có kế hoạch đầu tư con người để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi và cung cấp dịch vụ có hàm lượng chất xám cao hơn. Đào tạo và chuyên môn hóa lực lượng lo thủ

tục hải quan trong các công ty giao nhận quốc tế. Xây dựng kế hoạch, cử người đi tham quan, học hỏi ở nước ngoài, có chính sách đãi ngộ tốt và xứng đáng với các nhân viên giỏi chuyên môn, kỹ thuật. Đào tạo và tái đào tạo nguồn lực hiện có, thu hút lao động từ xã hội có trình độ đại học, cao đẳng chuyên ngành liên quan, am tường ngoại ngữ, có kiến thức địa lý, ngoại thương, cập nhật thường xuyên kỹ thuật mới trong nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế. Các công ty cần có chương trình hỗ trợ sinh viên thực tập, thuyết trình về thực tiễn hoạt động ngành hiện nay ở Việt Nam và trên thế giới cho sinh viên. Các công ty phải có đóng góp vật chất cụ thể cho đào tạo, hỗ trợ chuyên môn cho các trường nếu muốn sử dụng sinh viên tốt nghiệp từ những trường này.

Ngoài ra nếu những vấn đề về phúc lợi xã hội được đảm bảo, người lao động sẽ yên tâm làm việc. Thêm vào đó những chính sách ưu đãi con người, làm sao để người lao động gắn bó với doanh nghiệp, ý thức được vai trò, nhiệm vụ của mình. Đồng thời trong tương lai cùng với sự xuất hiện ngày càng tăng số lượng các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh loại hình dịch vụ này tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước cần phải có chính sách “giữ chân người tài”, tránh để nguy cơ mất những cán bộ giỏi sang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài. Đây chính là hiện tượng chảy máu chất xám đã xảy ra ngay trong một nước. Cho nên có thể nói, khai thác hiệu quả nguồn nhân lực chính là chìa khóa dẫn đến thành công.

3.5.Tăng cường các biện pháp Marketing:

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ngành dịch vụ giao nhận của Việt Nam đang còn nhiều hạn chế bởi các điều kiện khác nhau cũng như nhận thức của người giao nhận còn chưa được cải thiện, thì các doanh nghiệp thực hiện việc kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu Việt Nam cần phải đẩy mạnh hoạt động Marketing để tăng thêm nguồn hàng hóa được vận chuyển, tăng thêm các khoản lợi nhuận nhằm tái đầu tư vào dựng cơ sở

hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu tăng cao của khách hàng, đồng thời hình thành và phát triển năng lực cạnh tranh của chính các doanh nghiệp này khi đất nước mở cửa nền kinh tế một cách toàn diện hơn. Công tác Marketing cũng được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu mà các công ty giao nhận Việt Nam cần phát triển để có thể thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng, đồng thời giữ vững vị thế cạnh tranh của mình và có khả năng tham gia hiệu quả vào thị trường giao nhận quốc tế. Đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn, do đó các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận cần mở rộng hơn nữa quan hệ với các văn phòng đại diện và các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam; xây dựng quan hệ tốt với các cơ quan thương vụ và các tổ chức quốc tế để khai thác thông tin về các hợp đồng thương mại, đầu tư ở Việt Nam để khai thác nhu cầu giao nhận vận chuyển. Thêm vào đó các doanh nghiệp cũng nên nghiên cứu thiết lập các văn phòng đại diện của mình tại nước ngoài để nắm bắt thông tin thị trường tốt hơn và có nhiều cơ hội hợp tác, khuếch trương hình ảnh của mình tại các thị trường ấy. Nếu không có điều kiện mở văn phòng đại diện hay chi nhánh thì nên ký hợp đồng đại lý dịch vụ với các tổ chức kinh doanh loại hình dịch vụ này trên toàn cầu.

Nếu các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận của Việt Nam làm tốt khâu này thì chắc chắn trong tương lai không xa ngành dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có thể tạo lập được vị thế vững chắc trên thị trường trước sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế mở toàn cầu và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam có nhiều khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế.

3.6.Liên kết lại với nhau để tăng cường sức mạnh

Các doanh nghiệp dịch vụ giao nhận sắp tới sẽ đối mặt với áp lực cạnh tranh lớn, khi Việt Nam thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ này cho nhà đầu tư nước ngoài.Trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta đã cam kết cho nước ngoài được thiết lập ngay

các doanh nghiệp liên doanh, với tỷ lệ góp vốn 49-51%, để thực hiện kinh doanh các dịch vụ vận tải, giao nhận, kho bãi... Ba năm sau, tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài sẽ tăng lên và họ có thể thiết lập các công ty 100% vốn sau 5-7 năm.

Cho đến nay, nước ta đã có trên một ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận kho vận, nhưng chỉ có khoảng 800 doanh nghiệp thực sự có tham gia hoạt động, trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm khoảng 20%, Công ty TNHH, doanh nghiệp cổ phần chiếm 70%, còn 10% là các gia đình, tư nhân làm nhỏ lẻ, tham gia làm từng phần, từng công đoạn...Số lượng doanh nghiệp tuy là nhiều, nhưng còn phân tán, manh mún và sức cạnh tranh, năng lực cung cấp dịch vụ có chất lượng cao còn rất hạn chế vì các doanh nghiệp chủ yếu quy mô nhỏ, kinh doanh phân tán, nên chưa kết nối được một cách đầy đủ giữa thị trường trong nước với các thương cảng lớn trên thế giới và các quốc gia mà Việt Nam có quan hệ xuất khẩu lớn về thương mại, vì vậy hoạt động giao nhận của chúng ta mới giới hạn ở dịch vụ nội địa.

Hiện các doanh nghiệp Việt Nam không kết nối được với mạng lưới toàn cầu và chỉ dừng lại ở nhà cung cấp dịch vụ vệ tinh cho các đối tác nước ngoài có mạng điều hành toàn cầu, tức là chỉ làm một phần công việc trong chuỗi dịch vụ này như kê khai thủ tục hải quan, thuê kho bãi...Hiện Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào đủ sức để tổ chức, điều hành toàn bộ quy trình hoạt động giao nhận trọn gói (door to door). Chúng ta đang có một lượng lớn các doanh nghiệp nhưng quy mô nhỏ và rất nhỏ.

Trong khi đó, thay vì liên kết, hợp tác thì các doanh nghiệp Việt Nam lại cạnh tranh không lành mạnh, làm ăn chụp giựt, phá giá...trong khi chất lượng chưa cao thì lại tự làm yếu nhau và làm yếu chính mình. Do vốn ít nên tổ chức doanh nghiệp đơn giản, không chuyên sâu, không có văn phòng đại

diện ở các nước khác, nên không có thông tin, công việc phải giải quyết thông qua các đại lý của các công ty nước ngoài...

Đây không phải là lần đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam nhắc tới hai chữ "liên kết", khi mà cánh cửa WTO sắp được mở hoàn toàn. Theo nhiều chuyên gia, trước thực trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì bất kể ngành nào, việc liên kết cũng được coi là cứu cánh cho các doanh nghiệp trước những cuộc "xâm lăng" của các doanh nghiệp nước ngoài.

Với loại hình dịch vụ giao nhận, sự cạnh tranh được dự báo sẽ khốc liệt hơn nhiều. Bởi với nhiều nước phát triển, dịch vụ giao nhận được phát triển cao hơn trở thành chuỗi dịch vụ logistics, được coi là tâm điểm của sự phát triển kinh tế, thương mại, là lĩnh vực “hái ra tiền” mà nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn trên thế giới đang hướng tới.

Tuy nhiên, việc liên kết có thể coi là một điểm yếu nữa của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận Việt Nam. Liên minh, liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành còn yếu, không đủ mạnh, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động một cách rất manh mún, hoàn toàn độc lập với nhau. Liên kết giữa các doanh nghiệp nội lỏng lẻo đã đành, liên kết, nối mạng với mạng toàn cầu cũng không có. Đây thực sự là một mối nguy hiểm cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào sân chơi toàn cầu. Bởi nếu chỉ hoạt động một cách độc lập, thiếu sự liên kết với các mạng lưới dịch vụ khác thì khả năng chắc chắn một điều các doanh nghiệp Việt Nam chỉ hoạt động như một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cấp 2, cấp 3, cấp 4 đối với dịch vụ giao nhận toàn cầu mà thôi. Thậm chí còn thua ngay trên chính “sân nhà” của mình., đã đến lúc các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này phải “ngồi” với nhau nhiều hơn để tìm ra tiếng nói chung, đó chính là sự liên kết được đảm bảo chặt chẽ. Việc thực hiện các giải pháp đòi hỏi nỗ lực, cố gắng của các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp và đặc biệt là đội ngũ cán bộ viên chức, người lao động đang làm việc trong lĩnh vực giao nhận. Trong thời gian tới, rất cần có thêm

Xem tất cả 89 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí