Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975-2000 - 10

phần nổi bảy phần chìm” về ý nghĩa văn bản, thì trong trữ tình một nguyên tắc căn bản là phân biệt lời nói ngoài và lời nói trong, lời nói văn bản và lời nói tâm tư. Nguyễn Phan Cảnh phân biệt đây là hai tầng hiển ngôn và hàm ngôn của lời nói.(9). Ngôn ngữ trong thơ mang tính gián tiếp trong biểu hiện và phản ánh, vì thế nó cần thiết tìm đến ngôn ngữ nhiều hàm ẩn. Mặt khác do hạn chế về dung lượng nên ngôn ngữ thơ đòi hỏi phải tìm đến lối nói đa nghĩa, nhiều liên tưởng, tưởng tượng, dồn nén, cố gắng đạt đến mức cao nhất trong biểu hiện.

Có thể nói, ngôn ngữ là yếu tố hình thức thu hút được nhiều sự tìm kiếm sáng tạo nhất của thơ ca sau 1975. Thậm chí, đối với các nhà thơ theo xu hướng chủ nghĩa hiện đại thì “Thơ hiện đại là thứ thơ làm chữ, cô đúc, đa nghĩa, mang tính liên văn bản và đề cao yếu tố ngữ âm”(Lê Đạt). Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mang tính hai mặt của thơ sau chiến tranh, ở một mức độ nhất định thì sự sáng tạo có khả năng mang đến những cách biểu hiện mới mẻ, tạo nên sự thay đổi cần thiết cho đời sống văn học, nhưng mặt khác, cực đoan trong sáng tạo lại dẫn thơ trở nên khó hiểu và xa rời với nhận thức của người đọc.

3.1.1. Ngôn ngữ đời thường suồng sã.

Trước hết, có thể thấy cùng với tinh thần dân chủ hoá đang diễn ra trên mọi phương diện của đời sống, ngôn ngữ thơ cũng có một quá trình biến đổi khá sôi động và chịu tác động sâu sắc của đời sống đương đại. Xuất hiện khá nhiều trong thơ ca giai đoạn này là ngôn ngữ đời thường, suồng sã,loại ngôn ngữ xuất phát từ điểm nhìn có tính chất dân chủ hoá. Loại ngôn ngữ này thể hiện sự thay đổi cái nhìn của nhà thơ về đời sống, về quan niệm thẩm mỹ. Thơ từng hướng về thế giới thiên nhiên thanh sạch, thế giới bồng lai tiên cảnh, những cảm xúc kỳ vỹ để tô diểm hiện thực. Giờ đây, thơ nhìn xuống, nhìn xung quanh mình, cuộc sống hiện ra với tất cả màu sắc của nó, hạnh phúc và đau khổ, vinh quang và cay đắng, giàu sang và cơ cực, đau khổ và thấp hèn… Con người hiện hữu với

những gì thật nhất được phơi bày trong thơ. Những đứa trẻ lang thang, “người đàn bà goá bụa”, “những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen, toẽ ra như móng chân gà mái”… Rồi “Những con chó ngửa mặt tru trăng”, “Đêm vũ hội đầy bọ chó”…Và con gián, con sâu, bầy kiến, con nhện, cào cào… xuất hiện trong thơ Nguyễn Quang Thiều. “Những viên thuốc tránh thai lăn lóc trên giường”, “Những chú bé đánh giày”, “Những cô gái bán mình”, “Tình yêu kiểu kẹo cao su”…đi vào thơ Mai Quỳnh Nam…Tất cả phơi bày một hiện thực nghiệt ngã, thậm chí ô hợp với nhiều hạng người, nhiều tầng hiện thực chồng chéo và bức tranh xã hội phức tạp.

Và tất nhiên, trong một quan niệm thẩm mỹ đã có nhiều thay đổi, cái hay, cái đẹp của thơ ca phải gắn với cái thật, cái sù sì của cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống nhiều màu vẻ của thế giới đương đại thì ngôn ngữ “đời thường” trong thơ cũng có nhiều biến đổi. Trong giai đoạn thơ ca chống Pháp chúng ta cũng đề cập đến loại ngôn ngữ đời thường trong sáng tác của nhiều nhà thơ như Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Trần Mai Ninh…Cuộc kháng chiến đòi hỏi thơ bỏ qua những khuôn sáo cầu kỳ để đến với giản dị, chân thành, phù hợp với đời sống của tâng lớp công nông binh. Với yêu cầu phản ánh hiện thực ấy, thơ đã chấp nhận và huy động những từ ngữ trong đời sống hàng ngày, những từ ngữ địa phương, những từ ngữ chính trị, những thuật ngữ chuyên môn nghề nghiệp, thậm chí cả những khầu ngữ.Trong thơ mới trước kia rất hiếm những từ ngữ nói đến những sự vật, sự việc sinh hoạt…trong cuộc sống của nhân dân lao động, của đồng ruộng nông thôn thì thơ kháng chiến mở cửa đón những những từ ngữ đó vào mà vẫn không xô bồ. Những lợn gà, khoai sắn, đam cua, thậm chí cả những từ ngữ không thơ chút nào như bùn phân “Ở đây đường ngập bùn phân cũ”( Thôi Hữu) được đưa vào thơ một cách tự nhiên và tạo nên giá trị thẩm mỹ mới mẻ.

Cũng như thơ kháng chiến trước đây, việc sử dụng ngôn ngữ đời thường trong thơ đương đại có ý nghĩa tạo dựng một không khí, một màu sắc đương thời cho thơ. Tức là ngôn ngữ ấy là của thời đại ấy. Cái thời cơm bụi- Rủ nhau cơm bụi giá bèo- Yêu nhau theo mốt nhà nghèo …vô tư( Cơm bụi ca, Nguyễn Duy), cái thời SIDA- Cái thời chưa nhiễm SIDA- Yêu lăn lóc yêu la đà đã chưa( Được yêu như thể ca dao, Nguyễn Duy)…chỉ có thể là của thời kỳ này- thời kì kinh tế thị trường, và vì thế những từ ngữ như SIDA, cơm bụi cũng chỉ mới xuất hiện trong thơ đương đại chứ không thể là trước đó.

Tuy nhiên, ngôn ngữ đời thường của thơ đương đại còn mang những giá trị thẩm mỹ khá đặc biệt. Nếu trước kia, ngôn ngữ đời thường là để phù hợp với lời ăn tiếng nói cũng như tầm nhận thức còn hạn chế của nhân dân, thì giờ đây mục đích đầu tiên của nhà thơ khi sáng tạo ngôn ngữ là để tái hiện một hiện thực toàn vẹn với tất cả màu sắc đắng cay và hạnh phúc, cao cả và thấp hèn. Ngôn ngữ đời thường suồng sã không chỉ có ý nghĩa là ngôn ngữ bình dân mà nó mang thông điệp sâu sắc về hiện thực với ý thức “chọi” lại cảm hứng cách mạng, cảm hứng sử thi còn khá nhiều hào quang trước đó. Hiện thực giờ đây là hiện thực với nhiều mảng màu chắp vá khác nhau. Ngay như tình yêu, một chủ đề vốn được trân trọng, nâng niu, bây gìơ cũng góc cạnh, trần tục: “Người tình cũ như con mèo ướt- Đắm đò lúc qua sông”(Lê Minh Quốc), “Nhớ điên cuồng mùi anh như bò cái nhớ mùi phân rác”(Hoàng Hưng). Thơ tình Bùi Chí Vinh, ngôn ngữ suồng sã đến thô tục, hạ thấp đối tượng : “Hỡi các em, những khúc sương sườn cụt”, “Các em như miếng cá kho”, em là cao su, em là dây thun, em là li bia, “em hoá cọng hành, tôi là tóp mỡ nếm canh ái tình”. Hào quang của tình yêu rớt xuống , sự linh thiêng hoá của tình yêu tan biến bởi lời nói suồng sã. Từ ngữ xưng hô cũng thể hiện cái nhìn hạ thấp đối tượng: đàn bà, các em, các anh, ta đây con gái biển, đôi khi từ ngữ bị đẩy đến mức thô tục, gây cảm giác không đẹp: bấu, cắn,

kiệt, hấp háp, oằn oại, trắng bệch(Hoàng Hưng), cao bồi, cắn, khó chơi, thất tiết, thất tình, cởi quần…(Bùi Chí Vinh). Các nhà thơ không ngần ngại trong việc sử dụng từ , miễn là gây được ấn tượng và miêu tả được cảm giác của mình. Do đó, các chi tiết đời sống hàng ngày được đưa vào thơ một cách xô bồ, ồ ạt đến quá tải, không khỏi có lúc gây phản cảm cho độc giả.

Bên cạnh ý nghĩa hạ thấp đối tượng thể hiện môi trường không thuần khiết của cuộc sống hiện đại, ngôn ngữ đời thường lại có giá trị nhân văn sâu sắc. Loại ngôn ngữ này có thể miêu tả một cách cụ thể đời sống của những người nghèo khổ, cái thô mộc của ngôn ngữ đời thường phù hợp với cái lấm lem của cuộc đời bần cùng ở những em bé mồ côi, những cô gái bán hoa lầm lỡ…Nhờ đó nhà thơ có thể tiến gần hơn những nỗi bất hạnh cuả con người, và vì vậy cũng có thể thâm nhập vào thế giới tâm tư thầm kín của con người, một mảng hiện thực trước đây kiêng kị.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Trước kia, trong quan niệm của chúng ta, sử dụng ngôn ngữ đời thường là để thể hiện cuộc sống một cách trực diện nhất thì giờ đây ngôn ngữ đời thường còn mang những tầng nghĩa mới: Sự biểu hiện chiều sâu thân phận con người. Cái sù sì, trần trụi trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Quang Thiều có ý nghĩa như một sự tương thích với cõi cô đơn cuả con người hiện đại, một thế giới tăm tối mà đôi khi chúng ta chỉ có thể cảm nhận mà không dễ gì lý giải. Những người đàn bà xuống bến, những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái…đó là những câu thơ trong “Những người đàn bà gánh nước sông”. Đọc xong bài thơ ta chỉ có thể cảm nhận về một dòng sông đời nhẫn nại và yên ả, vừa bao dung vừa nghiệt ngã trước những khát vọng bình thường của những số phận. Nhiều người nhận xét đọc thơ Nguyễn Quang Thiều đôi khi cảm thấy như thơ dịch về đất nước con người Việt Nam. Đơn cử một chi tiết nhỏ, nhà thơ miêu tả người đàn bà goá bụa trong chiến tranh: “Vạch áo xem trộm vú mình trong gác bếp đầy rơm- Rồi bước ra sân

không gọi ai chỉ gọi con chó- Con chó liếm lưỡi hôi lên kí ức buồn…”(Trong tiếng súng bắn tỉa). Có khá nhiều từ ngữ “phô” mà những người Việt Nam kín đáo không quen viết như vậy. Nhưng thực chất đó là những câu thơ nghiêm túc và ấn tượng. Phía sau lớp ngôn ngữ tưởng chừng rất thực đến mức hơi thô như thế là những ý nghĩa tượng trưng giàu biểu cảm, “là một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm trước những số phận riêng chung, là sự trăn trở trước những giá trị tinh thần ẩn tàng trong các sự vật, hiện tượng” (54- tr512). Trong thơ Nguyễn Quang Thiều ngôn ngữ đời thường, trần trụi, gồ ghề được kết hợp một cách độc đáo với ngôn ngữ phiếm chỉ và giàu ý nghĩa tượng trưng, điều đó có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc khi thể hiện thế giới tâm linh con người nơi làng quê Việt nghèo khó, nghiệt ngã.

Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam 1975-2000 - 10

Như vậy, cùng với thời gian, cùng với sự thay đổi của đời sống cũng như nhu cầu biểu hiện của thơ, ngôn ngữ thơ đã có khá nhiều dấu hiệu thay đổi để phù hợp với đời sống đương đại. Loại ngôn ngữ đời thường không chỉ còn mang ý nghĩa biểu hiện cuộc sống một cách trực tiếp, giản dị nữa mà đó còn là ngôn ngữ của thân phận , của thế giới tinh thần gồ ghề, trúc trắc của con người hiện đại.

3.1.2 Ngôn ngữ trong sáng, giản dị.

Chúng ta đã biết thái độ người nghệ sĩ trong sáng tác phần nào phản ánh thái độ ứng xử của họ đối với đời sống. Đặc biệt, ngôn ngữ với tư cách là hình thức của tư duy chính là yếu tố chứa đựng một cách rõ nét thế giới tinh thần đó của con người.

Thái độ của nghệ sĩ đối với cuộc sống là không đồng nhất, vì vậy, ngôn ngữ biểu hiện trong sáng tác thơ ca cũng phân hoá thành nhiều loại khác nhau. Bên cạnh lớp ngôn ngữ đời thường, “nhại” lại đời sống là lớp ngôn ngữ trong sáng giản dị với ý nghĩa tìm kiếm cuộc sống ở phần thanh lọc nhất. Lớp ngôn ngữ này thường gắn với ước mơ của con người về hạnh phúc giản dị đời thường, về tổ ấm, về những đề tài thiên nhiên,

người mẹ, người chị, hay nói cách khác là gắn với những đề tài mang tính truyền thống.

Cuộc sống hiện đại xô bồ vốn nhiều bất ổn, nhiều giá trị bị biến dạng là lý do để thơ ca tìm kiếm những giá trị mang tính vĩnh cửu như một chỗ dựa tinh thần. Lựa chọn ngôn ngữ trong sáng giản dị là một lựa chọn tất yếu và mang tính nghệ thuật- hình thức của nội dung. Lớp ngôn ngữ này có khả năng diễn tả những mơ ước của nhà thơ cũng như con người trong thế giới hiện đại về một cuộc sống đời thường và giản dị nhất.

Chúng ta có thể bắt gặp trong thơ nữ thi sĩ Xuân Quỳnh một “đời sống ngôn ngữ” rất đặc biệt. Bình hoa, phích nước, xô nhựa, chậu men, cơm reo, áo mắc trên tường, ngọn lửa bếp đèn…đều được đưa vào thơ chị và mang một sức sống riêng. Một thứ ngôn ngữ mang đậm dấu ấn thiên tính của người phụ nữ, nó thuộc về sự cảm nhận riêng đối với chất thơ mà Xuân Quỳnh tỏ ra mẫn cảm hơn ai hết: Chất thơ từ tổ ấm. Chị gắn bó với căn nhà và tìm thấy trong thế giới đồ vật sự bình yên. Có những câu thơ Xuân Quỳnh viết không đâu: “Căn phòng con riêng của chúng mình- Nước trong phích hoa trong bình gốm cũ”. Không làm chữ, không phô bày, nếu định tìm ở những câu thơ như vậy những trau chuốt, hoa mỹ sẽ vô tình đánh mất đi nhịp rưng rưng không chút mơ hồ của một trái tim đang bao bọc, quấn quýt với mọi đồ vật thân thuộc đơn sơ thôi nhưng nó thuộc về tổ ấm của mình, của riêng mình. Thế giới ngôn ngữ đời thường trong thơ chị còn mang một ý nghĩa đặc biệt khác, đó là quan niệm của chị về hạnh phúc: trái tim vĩnh cửu chính là trái tim đời thường “Biết ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa”, tình yêu lý tưởng là tình yêu gắn liền với mái ấm “Chiếc áo mắc trên tường, màu hoa sau cửa kính- Nồi cơm reo trên ngọn lửa bếp đèn- Anh trở về trời xanh của riêng em”. Thế giới của bình hoa phích nước cao cả không kém gì biều tượng về bầu

trời. Ngôn ngữ đời thường mang những thông điệp về hạnh phúc đời thường.

Một điều đặc biệt là ngôn ngữ đời thường, của đời sống hàng ngày xuất hiện khá nhiều trong thơ các nhà thơ nữ. Điều này có lý do của nó, đó là trong thơ các nhà thơ nữ đương đại chủ đề về hạnh phúc đời thường xuất hiện rất nhiều. Tổ ấm là tình yêu lý tưởng của mỗi người phụ nữ. “Em ngồi đợi nắng qua đi- Mong anh chóng về gọi cửa- mâm cơm em chờ mỗi bữa- Có hương gạo mới thơm lừng”(Nguyễn Thị Hồng Ngát), “Đang ăn cơm bỗng hát- Giữa giấc ngủ mỉm cười- Em bất thường lạ thật- Bắt đền anh anh ơi( Lê Thị Mây), Em nấu bếp nhìn anh trong mắt ướt- Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang….Mâm cơm, hương gạo mới, nấu bếp…là những ngôn từ rất đời thường về những sự vật đời thường, công việc đời thường nhưng không tầm thường, trái lại, nó mang vẻ đẹp về một hạnh phúc tự nhiên, bình dị.

Đề tài về thiên nhiên, về người mẹ, làng quê cũng tác động sâu sắc đến sự lựa loại ngôn ngữ trong sáng giản dị. Trở về với truyền thống là trở về với những giá trị tự nhiên, vì vậy cần đến lớp ngôn ngữ trong sáng như là một biểu hiện của sự tự thanh lọc tâm hồn. Đó là thế giới của gió, cát, màu nắng, màu mây, hoa tím nhạt, hoa cúc xanh, hoa tường vi, trong trẻo dịu dàng trong thơ Xuân Quỳnh. Đó là một tiếng chim tu hú, một tiếng sóng hồ, một lá chua me…bình yên trong thơ Ngô Văn Phú. Nhờ lớp ngôn ngữ giản dị, trong sáng mà cỏ cây, sự vật được gọi bằng cái tên quen thuộc của nó, có lẽ vì vậy mà cuộc sống trở nên gần gũi với con người hơn, nhiều giao cảm với con người hơn.

Xuất hiện trong thơ khá nhiều câu thơ thể hiện trạng thái thức tỉnh, nhận ra, hối hận, ăn năn: “Khi tôi biết thương bà thì đã muộn- bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”( Nguyễn Duy), “Giữa bao nhiêu mưa nắng ngược xuôi- Đã có lúc lòng con đơn bạc- Quên cả những điều tưởng không sao quên được- Như người no quên cơn đói của mình”(Ý Nhi), “Giờ con cười

bên những đứa con xinh- Nghe nước mắt chảy vào trong lặng lẽ- Bông cà na vẫn trắng tinh như thế…Mẹ bây gìơ mới hiểu mẹ ngày xưa(Thu Nguyệt). Cả những câu thơ thể hiện lòng biết ơn: “Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời- Trái tim mẹ giữa đất trời còn yêu”(Lâm Thị Mỹ Dạ), “Mẹ không ghét bỏ em đâu- Yêu anh em đã làm dâu trong nhà…Chắt chiu từ những ngày xưa- mẹ sinh anh để bây giờ cho em”(Xuân Quỳnh). Sự nhắc nhở, răn dạy: “Bà ru mẹ mẹ ru con- Liệu mai sau các con còn nhớ chăng?(Nguyễn Duy). Trạng thái giãi bày như trên đòi hỏi thơ phải viết một cách dễ hiểu nhất, đơn giản nhất, để cái đầu tiên người ta nhận ra là sự vỡ oà của xúc cảm, nỗi niềm chứ không phải câu chữ. Vì vậy, mỗi câu thơ thường được xâu chuỗi, các từ nối kết với nhau thể hiện tâm trạng mà không găm lại hay tạo ấn tượng ở một vài từ ngữ nào đó. Sự giản dị của lời nói là cách bày tỏ lòng chân thành hiệu quả mà đơn giản nhất. Mảng thơ viết về mẹ thường sử dụng lối viết này cũng vì lẽ đó.

3.1.3. Ngôn ngữ hàm ẩn, giàu sức gợi.

“Căn cứ chủ yếu để phân biệt ngôn ngữ nghệ thuật chính là ở chỗ, ngôn ngữ văn học là hình thái hoạt động ngôn ngữ mang ý nghĩa thẩm mỹ” (22- tr 186). Cũng trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cho rằng tính chính xác, tính hàm súc, tính đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học(22-tr 187). Điều này càng trở nên đặc biệt đối với thể loại thơ ca, một hình thức sáng tác văn học thiên về biểu hiện cảm xúc.

Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng không phải là đặc điểm có tính khu biệt của thơ ca đương đại so với thơ ca các thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, do sự thay đổi trong tư duy văn học nên cách thể hiện ngôn ngữ hàm súc trong thơ thời kỳ này có khá nhiều thay đổi, đặc biệt thế giới tâm linh được khai thác sâu hơn dẫn đến sự xuất hiện nhiều ngôn ngữ ám thị tượng trưng.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 03/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí