nước ngay cả trong cung cấp hàng hoá và cả trong vai trò là ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời thấp, nhưng cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa, như cơ khí chế tạo, đóng tàu, công nghiệp phụ trợ… Nhìn lại chương trình cải cách các TĐKTNN nói chung và Vinashin nói riêng trong hơn 20 năm qua, đó là quá trình cải cách đầy “mâu thuẫn, trăn trở và đau đớn”, thời điểm hiện nay kế hoạch cải cách khó khăn hơn rất nhiều vì liên quan đến ý thức hệ, các nhóm lợi ích. Yếu kém của TĐKTNN nói chung và Vinashin nói riêng là vấn đề quản trị tập đoàn, nó nằm ngay trong bất cập về lý luận, quan điểm, mục tiêu phát triển TĐKTNN trong thời gian vừa qua.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và cải cách quy chế pháp lý về quản trị TĐKTNN nhằm giúp các DNNN xây dựng được chính sách và kế hoạch cho sự phát triển của mình, tạo điều kiện cho DNNN chủ động hơn trong cơ chế thị trường cũng như đảm bảo vai trò chủ lực để Nhà nước can thiệp ổn định kinh tế vĩ mô, tránh tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn vấn đề “Cải cách pháp luật về quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước qua bài học Vinashin” làm đề tài cho Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những vấn đề lý luận chung về quản trị công ty, trong đó có pháp luật quản trị TĐKTNN đã được trình bày trong nhiều công trình, đề tài nghiên cứu hay trong nhiều bài viết, báo cáo khoa học. Đặc biệt qua vụ việc “đổ vỡ” của Vinashin đã được cả nước quan tâm, theo dòi. Qua đó các nhà chuyên môn cũng đã nghiên cứu, rút ra nhiều bài học lớn từ sự đổ vỡ này. Tuy nhiên nội dung nghiên cứu, các bài học được rút ra từ nhiều góc nhìn khác nhau chưa lấy vấn đề quản trị và pháp luật về quản trị làm trung tâm, cốt lòi. Đến nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định chung về vấn đề quản trị TĐKTNN, khái niệm về TĐKT được đưa vào Luật doanh nghiệp cũng rất sơ sài. Đề tài này đã tổng hợp các nội dung cả về lý luận lẫn thực tiễn liên quan đến quản trị TĐKTNN nói chung và quản trị tại Vinashin nói riêng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu với mục đích lấy các giá trị cốt lòi của QTCT theo nguyên tắc của OECD làm trung tâm để phân tích, đưa ra các nguyên nhân dẫn đến thất bại, đổ vỡ của Vinashin. Từ đó phân tích thực trạng pháp lý và hệ thống hóa những kiến thức pháp lý về quản trị TĐKTNN. Đưa ra những bất cập của các qui định pháp luật về quản trị TĐKTNN và việc bất hợp lý trong áp dụng các qui định này tại Vinashin; tìm ra phương hướng và đề xuất những điểm cần bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới góp phần cải cách các quy định về QTTĐKT ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu phân tích việc áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam trong quản lý, điều hành tập đoàn kinh tế nhà nước nói chung và tại Vinashin nói riêng từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đư ợc nghiên cứ u trên cơ sở phương pháp biện chứ ng duy v ật,
Có thể bạn quan tâm!
- Cải cách pháp luật về quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước qua bài học Vinashin - 1
- Khái Luận Về Quản Trị Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
- Pháp Luật Về Quản Trị Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
- Pháp Luật Về Đầu Mối Chủ Sở Hữu Nhà Nước Đối Với Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
phương pháp tổng hơp , thống kê, phương pháp phân tích , phương pháp quan
sát, phỏng vấn, luật học so sánh…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài đã đưa ra được một số bài học về quản trị TĐKTNN và đề xuất được một số các kiến nghị nhằm cải cách pháp luật về quản trị quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước, như: Hoàn thiện các quy định của pháp luật để Nhà nước thực sự đóng vai trò chủ sở hữu; cải cách các quy định pháp luật về cơ chế giám sát; cải cách các quy định pháp luật để quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước trở thành một thực thể kinh doanh thống nhất gồm tập hợp các doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với nhau; cải cách các quy định pháp luật về mối quan hệ giữa Ban kiểm soát với HĐTV và Tổng Giám đốc, giám đốc; cải cách các quy định pháp luật về mối quan hệ giữa tập đoàn kinh tế nhà nước với các bên có quyền lợi liên quan…
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước và vụ việc Vinashin.
Chương 3: Những bài học rút ra từ vụ việc Vinashin và vấn đề cải cách pháp luật quản trị tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN TRỊ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
1.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế nhà nước
1.1.1. Khái niệm, quan điểm về tập đoàn kinh tế nhà nước
Khái niệm TĐKT đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ XIX khi nền sản xuất hàng hóa thế giới phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhiều công ty, doanh nghiệp với năng lực sản xuất, năng suất lao động khác nhau, dẫn tới quy mô và tốc độ phát triển khác nhau đã xuất hiện các hiện tượng chèn ép, thôn tính hoặc tự nguyện tìm cách “chung sống hòa bình” với nhau trên cơ sở những liên minh hay tổ hợp để “phân chia” thị trường và khai thác những tiềm năng riêng của từng công ty, doanh nghiệp trong một “vỏ bọc” vững chắc hơn bởi một liên minh rộng hơn. Những cụm từ chỉ các tập hợp trên phổ biến từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là “Cartel”, “Association”, “Connortium”, “Conglomerale”… và gần đây là “Chaebol”, “Group”, “MNC”... Tất cả những cụm từ trên đều có chung một số nghĩa chủ đạo là sự liên minh, liên kết, nhóm… cùng thỏa thuận tuân thủ một số nguyên tắc điều chỉnh chung như phối hợp chiến lược, góp vốn, cung ứng sản phẩm; phân chia chiếm lĩnh thị trường; thống nhất phương thức, nguyên tắc kiểm soát nội bộ; có một công ty đóng vai trò trung tâm, có khả năng chi phối, hỗ trợ và bảo vệ các công ty con, công ty thành viên khác tránh khỏi nguy cơ bị chèn ép, thôn tính… Tất cả những “liên minh” trên khi nghiên cứu và dịch sang tiếng Việt, được gọi chung là “tập đoàn”.
Cho đến nay, tên gọi chung của TĐKT theo tiếng Anh là business group, hoặc là corporate group hoặc group companies. Tuy nhiên, tên gọi giữa các quốc
gia cũng khác nhau, ví dụ tại Mỹ, các tập đoàn có tên gọi là conglomerate, tại Nhật Bản tên gọi của tập đoàn là zeibatsu hoặc là keiretsu, tại Hàn Quốc tên gọi tập đoàn là chaelbol, tại Ấn Độ tên gọi của tập đoàn là business houses.
Một số quốc gia đưa khái niệm về TĐKT dựa trên nguyên tắc các công ty là các pháp nhân độc lập (Mỹ), một số quốc gia lại đưa khái niệm về TĐKT theo cách tiếp cận coi TĐKT là một thực thể thống nhất, một đơn vị kinh tế (Đức). Theo nguyên tắc pháp nhân độc lập thì mỗi công ty thành viên trong tập đoàn là một pháp nhân độc lập, có quyền và nghĩa vụ riêng. Cổ đông của mỗi công ty thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn, không phân biệt họ là thành viên của công ty nào; chủ nợ của công ty nào thì chỉ được đòi nợ của chính công ty đó. Theo cách tiếp cận là một thực thể thống nhất thì khái niệm tập đoàn được xây dựng theo một số ngành luật như luật cạnh tranh, thuế, luật công ty… Theo cách tiếp cận này, việc phân chia thị trường công ty mẹ, công ty con sẽ không bị coi là vi phạm qui định về cạnh tranh.
Tại một số nước châu Âu như Anh, Hà Lan… khái niệm tập đoàn được hiểu là mối quan hệ giữa nhiều chủ thể kinh tế có lợi ích chung, có mối quan hệ sở hữu và khế ước với nhau, cùng tiến hành sản xuất kinh doanh trong một hoặc nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế.
Mặc dù khái niệm về TĐKT còn không thống nhất giữa các quốc gia, nhưng điểm chung giữa các khái niệm “TĐKT” là một tổ hợp các doanh nghiệp, bao gồm công ty mẹ, công ty con và doanh nghiệp liên kết khác. Công ty mẹ là hạt nhân của tập đoàn, là đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết với nhau, nắm quyền kiểm soát, chi phối các chính sách, chiến lược phát triển, chi phối hoạt động của các thành viên. Bản thân tập đoàn không có tư cách pháp nhân. Công ty mẹ, công ty con và doanh nghiệp liên kết có tư cách pháp nhân. Tập đoàn hoạt động trong một ngành hay nhiều ngành khác nhau; công ty con và doanh nghiệp liên kết khác
có quan hệ với nhau về vốn, đầu tư, công nghệ thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia liên kết.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa:
TĐKT là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, có tiềm lực kinh tế - tài chính mạnh, cơ cấu phức tạp, vừa kinh doanh vừa liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận. Nó trở thành hình thức phổ biến và có vai trò chi phối, tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế ở nhiều nước trong giai đoạn hiện nay [16].
Điều 149, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Tập đoàn là tổ hợp kinh doanh chứa đựng trong đó các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, nhưng bản thân tập đoàn lại không phải là một pháp nhân, tập đoàn không có tư cách pháp nhân.
Về TĐKTNN, theo TS.Trần Tiến Cường, Trưởng Ban nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp (Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương) thì TĐKTNN là nhóm công ty, liên kết chủ yếu dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên, tạo thành tổ hợp kinh doanh gắn bó với nhau…
Khác với các TĐKT trên thế giới, hầu hết đều đi từ các công ty nhỏ, hoạt động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành các tập đoàn khổng lồ, các TĐKT Việt Nam được thành lập dựa trên các TCT có quy mô chưa lớn, trình độ quản trị chưa cao. Nói một cách khác, các TĐKTNN ở Việt Nam được thành lập theo các quyết định hành chính, chủ quan không tuân thủ quy luật khách quan. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả trong kinh doanh của các tập đoàn.
1.1.2. Một số mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới
Thế giới có nhiều mô hình TĐKT được áp dụng, từ mô hình tập đoàn ở
các quốc gia Âu – Mỹ cho đến quốc gia Châu Á, như Nhật Bản (Keiretsu), Hàn Quốc (Chaebol), Trung Quốc (Jituan Gongsi) và nhiều mô hình tập đoàn khác.
Mô hình các tập đoàn ở các quốc gia Âu – Mỹ được hình thành dựa trên nền tảng phát triển kinh tế từ lâu đời về thương mại, công nghiệp và dịch vụ của khu vực. Khởi đầu từ các doanh nghiệp gia đình trong một số ngành nghề nhất định, thông qua quá trình sát nhập và mở rộng hoạt động, các TĐKT lớn mạnh đã lần lượt được ra đời.
Tại Nhật Bản, mô hình Keiretsu xuất hiện trong thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai thông qua hoạt động liên kết giữa các công ty với nhau bằng việc mua cổ phần để hình thành liên minh theo chiều ngang trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề. Mô hình Keiretsu các công ty thường lấy một ngân hàng làm hạt nhân trung tâm liên kết thông qua quan hệ tín dụng cũng như quan hệ sở hữu hay chi phối vốn cổ phần.
Không giống như mô hình Keiretsu tại Nhật Bản, mô hình Chaebol của Hàn Quốc lại lấy trung tâm liên kết là các công ty gia đình liên kết thông qua quan hệ sở hữu hay chi phối vốn cổ phần tại các công ty con. Các công ty gia đình có mối liên hệ “thân hữu” với Chính phủ và nhận được nhiều ưu đãi từ phía nhà nước. Ngược lại, các Chaebol cũng chịu sự định hướng của Chính phủ về mục tiêu kinh doanh, nhưng các mục tiêu xã hội khác thì không bị ràng buộc. Cũng giống như các mô hình tập đoàn khác, các Chaebol cũng có xu hướng mở rộng phạm vị hoạt động, bành trướng đa ngành, đa lĩnh vực.
Mô hình Jituan Gongsi tại Trung Quốc lại cho thấy những đặc điểm khác biệt khi hạt nhân liên kết trong các tập đoàn là các DN và TCTNN. Từ cuối thế kỷ XX, Trung Quốc đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa các DNNN có quy mô nhỏ, đồng thời tập trung nguồn lực phát triển các công ty lớn thành những tập đoàn đủ mạnh để cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Quá trình hình thành các TĐKT tại Trung Quốc bắt đầu từ việc sát nhập các DNNN thành các TCT lớn cho tới khi đạt đến một quy mô nhất định. Tại đó, TCT sẽ
phân quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên. Tiếp theo là đa dạng hóa sở hữu và hình thức nắm giữ cổ phần đan chéo giữa các doanh nghiệp thành viên. Cuối cùng là thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư vốn và chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài [24].
1.1.3. Tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam
1.1.3.1. Giai đoạn trước năm 2006
Từ cuối năm 1970 và trong những năm 1980, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương phát triển các liên kết xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp. Sau đó, mô hình TCT đã thay thế cho các liên hiệp xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, đó là những mô hình của cơ chế kế hoạch hóa tập trung hoặc của giai đoạn chuyển tiếp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1991) đã xác định “Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, TCT phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường… Xây dựng một số công ty hoặc liên hiệp xí nghiệp lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài” [12]. Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng ghi rò “Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp… theo hướng tổ chức các tập đoàn kinh doanh, khắc phục tính chất hành chính; trung gian…” [12]. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy (khóa
VII) của Đảng khẳng định “Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn với mục đích tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới”.
Trên cơ sở đó, Tập đoàn kinh doanh bắt đầu được thành lập từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 91/1994/QĐ-TTg, ngày 07/3/1994 về thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh. Theo quyết định này, tập đoàn là pháp nhân kinh tế do Nhà nước thành lập gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về tài chính và các dịch vụ liên quan, có quy mô tương đối