Tình Hình Cung Cấp Các Hàng Tiêu Dùng Trong Chiến Tranh


Bảng 1.2 sau đây sẽ cho chúng ta thấy mức độ sẵn có của các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày vào tháng 7 năm 1945, bắt đầu bằng các thực phẩm và lấy năm 1941 là năm tình hình cung cấp đã trở nên căng thẳng, làm năm cơ sở là 100.

Bảng 1.2: Tình hình cung cấp các hàng tiêu dùng trong chiến tranh


Danh mục


Năm 1941


Tháng 7-1945


Năm 1937


Tháng 7-1945


Gạo

11,74 triệu kg


9,42 triệu kg

Hàng dệt bông 200


2%

Thịt

100

20%

Hàng dệt len 100

1%



100


30%

Giày ống của công nhân 100


10%


Đồ gia vị


100

50% hoặc ít hơn


Xà phòng 100


4%




Giấy 100

8%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Cải cách kinh tế - Xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ - 3

Nguồn: Viện nghiên cứu xã hội Ohara, Taiheiyo Senso Ka no Kokumin Seikatsu (Đời sống quốc gia trong thời gian Chiến tranh Thái Bình Dương).

Qua các số liệu ở Bảng 1.2, ta nhận thấy rằng, so với năm 1941, lượng cung cấp thịt giảm còn 20%, cá giảm còn 30% và đồ gia vị giảm còn chưa đầy 50% vào tháng 7 năm 1945. Nếu so sánh các hàng hóa khác với các con số của năm 1937, chúng ta nhận thấy tình trạng còn tồi tệ hơn, chẳng hạn, hàng dệt bông đã giảm còn 2% so với các con số của năm 1937, hàng len còn 1%, giày ống của công nhân còn 10%, xà phòng còn 4% và giấy còn 8%.


Không chỉ cuộc sống vật chất bị khốn khó, mà cuộc sống tinh thần của người dân Nhật Bản trong chiến tranh cũng bị bóp nghẹt. Họ thường xuyên bị cảnh sát theo dòi, mọi phát ngôn tỏ ra nghi ngờ chính phủ và cuộc chiến và mọi hành vi tụ tập đông người đều bị cấm đoán triệt để hoặc bị đàn áp.

Rò ràng là, để phục vụ cho tham vọng xâm lược bành trướng lãnh thổ của giới quân phiệt và tài phiệt Nhật Bản, người dân nước này đã buộc phải hy sinh, phải sống trong những điều kiện cực kỳ thiếu thốn về vật chất và bị kìm kẹp về tinh thần. Nhưng đáng tiếc là hành động xâm lược, hiếu chiến, dã man của chủ nghĩa phát xít đã bị kết thúc bằng một kết cục thảm hại, ghi dấu những trang sử nhục nhã thê thảm trong tiến trình lịch sử Nhật Bản. Do vậy, khi nói đến những năm tháng chiến tranh, người Nhật Bản cho đến nay vẫn chưa thôi bàng hoàng. Đồng thời, sự thất bại nhục nhã cùng với sự trả giá vô cùng to lớn cho một tham vọng xâm lược ngông cuồng đã khiến người dân Nhật Bản nói chung và giới lãnh đạo Nhật Bản nói riêng nhận thức rò một điều là: Không thể phát triển đất nước bằng các bóc lột, cưỡng bức và kìm kẹp người dân nước mình và xâm lược, đàn áp người dân nước khác bằng vũ lực, mà phải bằng các biện pháp phát triển kinh tế trong một môi trường dân chủ và hoà bình, khiến mọi người tự nguyện đem mọi nguồn lực sẵn có của mình phục vụ đất nước.

1.2. Những hậu quả nặng nề do chiến tranh


Sự thất bại và nhục nhã của nước Nhật càng lớn hơn, vì sau khi tiếp nhận “Tuyên cáo Posdam” và đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện, nước Nhật còn bị quân Đồng minh và thực tế là quân Mỹ chiếm đóng.

Đồng thời, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã để lại cho người Nhật một đất nước bị tàn phá nặng nề và đổ nát điêu tàn, khiến nền kinh tế


hầu như bị ngừng trệ, mức sản xuất công nông nghiệp bị tụt giảm chỉ bằng một phần mức trước chiến tranh, cuộc sống người dân cực kỳ khó khăn.

1.2.1. Sự kiệt quệ của nền kinh tế


Những thiệt hại to lớn về người và của đã làm cho nước Nhật kiệt quệ. Nhật Bản chẳng những mất hết thuộc địa (diện tích tương đương 44% toàn bộ diện tích nước Nhật) mà nền kinh tế cũng lâm vào tình trạng bị phá hủy hoàn tòan.[19, tr. 61]

Nếu tính cả những người chết trận hoặc do chết vì bệnh tật ở ngoài mặt trận thì con số đó lên tới khoảng 1,14 triệu người trong lục quân, 410.000 người trong hải quân. Các cuộc oanh tạc máy bay của quân Đồng minh còn làm cho 300.000 người chết, đưa tổng số người bị chết, bị thương và bị mất tích trong chiến tranh lên tới 2,53 triệu người. Nếu tính cả số lượng người bị chết, bị thương và mất tích ở nước ngoài thì con số này lên tới 3 triệu người.

Cùng với những thiệt hại về người, những thiệt hại nặng nề về vật chất do chiến tranh gây ra làm cho cả nước Nhật điêu đứng. Có tới 40% số đô thị của Nhật bị tàn phá và khoảng 2.250.000 nhà ở bị phá hủy, trong đó hầu hết các thành phố lớn, như Tokyo và Osaka, đều bị bom Mỹ huỷ diệt phần lớn. 34% máy móc và trang thiết bị công nghiệp, 25% nhà cao tầng và 81% tàu biển bị phá hủy. Tổng giá trị thiệt hại trong chiến tranh lên tới 64,3 tỉ Yên, chiếm 1/3 tổng giá trị của các tài sản còn lại của đất nước sau chiến tranh là 188,9 tỉ yên. Con số thiệt hại này cũng xấp xỉ ngang với tổng giá trị tài sản quốc gia năm 1935. Chiến tranh đã hủy diệt một lượng tài sản khổng lồ của nước Nhật, tương đương với toàn bộ của cải tích lũy được trong 10 năm, từ 1935 – 1945. Những thiệt hại về vật chất được tính bằng hai lần tổng thu nhập quốc dân năm tài chính 1948 – 1949. Những tài sản thuộc về vốn cố định đã bị phá hủy về đại thể là 25% các công trình, 75% cảng, 3,5% cầu, 7,5%


đường sắt và 82% tàu thuyền dân dụng. Sản lượng công nghiệp năm 1946 giảm sút còn chưa đầy 1/3 tổng sản lượng năm 1930 và 1/7 sản lượng năm 1941. Bị kiệt quệ về kinh tế, bị đè bẹp về quân sự và sụp đổ về tinh thần, có thể nói, sau chiến tranh, nước Nhật đã thực sự kiệt sức. [24, tr. 62]

Ngoài ra, trong thời gian chiến tranh, hầu hết các cơ sở công nghiệp Nhật Bản đều hướng vào mục tiêu tập trung sản xuất quân trang, quân dụng (như vũ khí, đạn dược và quần áo) phục vụ chiến tranh. Chiến tranh kết thúc kéo theo mạng lưới công nghiệp phục vụ quân sự này không thể sử dụng vào việc phục hồi và phát triển sản xuất, do không còn phù hợp. Vì vậy, tất cả các phương tiện sản xuất máy bay, vũ khí quân sự ở các nhà máy đặc biệt là các kho của quân đội và hải quân đều bị phá bỏ. Ngoài ra, 50% máy móc, thiết bị của các xưởng đóng tàu, nhà máy điện, nhà máy sản xuất thép cũng bị tháo gỡ. Theo giới phân tích đánh giá thì vốn cố định trong năm 1945 giảm 25% so với mức cao nhất của thời kỳ chiến tranh và xấp xỉ bằng mức năm 1935. Do đó, năng lực sản xuất bị giảm nghiêm trọng. Chẳng hạn, năng lực sản xuất thép chỉ còn 2,5 triệu tấn. Sản lượng công nghiệp bị đẩy lùi về mức những năm 1926 - 1930. Theo ước tính, Nhật Bản bị mất 1/4 số tài sản quốc gia có khả năng sản xuất trong chiến tranh. Bảng 1.3 là một số thống kê về những thiệt hại của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.

1.2.2. Nền kinh tế cực kỳ khó khăn


Sau chiến tranh, Nhật Bản còn phải đương đầu với tình trạng bao vây, cấm vận từ bên ngoài, khiến cho việc nhập khẩu nguyên liệu từ bên ngoài bị gián đoạn. Như chúng ta biết, là một đảo quốc gồm 3.900 hòn đảo lớn nhỏ với diện tích là 378.000km2 và chỉ có 30% là diện tích trồng trọt, nguồn tài


nguyên khoáng sản của Nhật Bản hầu như không có gì mà chủ yếu phải nhập khẩu. Do vậy, nhiều nhà phân tích cho rằng, việc gián đoạn nhập khẩu nguyên liệu đã gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế hơn so với việc vốn cố định bị phá hủy. Kim ngạch nhập khẩu năm 1946 chỉ còn bằng 1/8 năm 1935. Cùng với việc bị phong tỏa các hàng nhập khẩu, sản xuất than trong nước cũng bị giảm nghiêm trọng do các thợ mỏ người Trung Quốc và Nam Triều Tiên, ngoài phần lớn lượng người đã bị điều vào quân dịch trong chiến tranh, đã bỏ về nước. Số thợ mỏ, do vậy, đã giảm đột ngột, tới 40%, từ 460.000 vào năm 1944 xuống còn 270.000 năm 1945. Quá trình này cũng gây nên tình trạng hỗn loạn như đình công thường xuyên và thậm chí bạo loạn ở rất nhiều mỏ than.


Bảng 1.3: Tổng giá trị thiệt hại của Nhật Bản trong Chiến tranh Thái Bình Dương


(Đơn vị tính: tỷ yên)



Danh mục


Tổng số thiệt hại


Giá trị tài sản không bị phá hoại

Của cải quốc gia vẫn còn vào lúc kết thúc chiến

tranh


Tỷ lệ phần trăm tài sản bị tàn phá


Của cải quốc gia vào năm 1935, được tính theo giá trị vào cuối cuộc chiến tranh

Tổng giá trị tài sản quốc gia

64,3

253,1

188,9

25

186,7

Các tòa nhà và các cơ sở kiến trúc khác

22,2

90,4

68,2

25

76,8

Máy móc công nghiệp

8,0

23,3

15,4

34

8,5

Tàu thuyền

7,4

9,1

1,8

82

3,1

Các cơ sở và thiết bị cung cấp điện và

khí


1,6


14,9


13,3


11


9,0

Đồ gỗ và đồ dùng gia đình

9,6

46,4

36,9

21

39,3

Các mặt hàng sản xuất

7,9

33,0

25,1

24

23,5


Nguồn: Ban ổn định kinh tế, Taiheiyo Senso ni Yoru Wagakuni no Higai Sogo Hokokusho (Báo cáo toàn diện về sự thiệt hại của nước ta trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương), 1949.[44, tr. 36]


Trong thời gian này, do chiến tranh kết thúc và sản xuất bị đình đốn, nên số người mất việc làm tăng mạnh và nguồn cung việc làm giảm sút, dẫn đến tình trạng thất nghiệp lan tràn và hậu quả là nguy cơ rối loạn xã hội luôn rình rập xảy ra rộng khắp trên cả nước. Cụ thể, trong thời kỳ này có 7,61 triệu binh sĩ của các lực lượng dự bị giải thể, 4 triệu người phục vụ cho các cơ quan và các nhà máy quân sự hoặc các hoạt động quân sự bị thất nghiệp do việc đình sản xuất, trong đó có 750.000 phụ nữ và khoảng 1,5 triệu người hồi hương từ các thuộc địa hải ngoại trở về. Tổng số những người không có việc làm lên tới 13,1 triệu người. Nếu trừ những người sau này có thể quay trở lại việc cũ, và nông dân có thể quay về nông thôn làm ruộng, thì con số này cũng lên tới 10 triệu người.[44, tr. 45]. Rất nhiều người không nhà và những địa điểm như công viên, cầu đường, các nơi công cộng biến thành nơi tá túc của những người lính giải ngũ từ Đài Loan, Triều Tiên, Mãn Châu hoặc từ các nước châu Á khác. Ở Nhật Bản, thời gian này, mặc dù người ăn mày rất ít và các cảnh cướp bóc hầu như rất hiếm hoi, nhưng “chợ đen” thì mọc lên nhiều vô kể, đặc biệt nhiều ở những nơi như thủ đô Tokyo và một số thành phố lớn khác. Nhiều người thất nghiệp đã tìm được việc làm ở chợ đen, buôn bán vặt… Nạn thất nghiệp, cảnh không nhà ở và chợ đen làm nảy sinh ra nhiều căn bệnh xã hội khác như: bệnh tật, mại dâm,... Đó là những vấn đề nan giải xảy ra với tất cả các nước sau chiến tranh và không ngoại trừ đối với Nhật Bản. Tình trạng thiếu năng lượng và lương thực cũng diễn ra trầm trọng.

Các nguồn năng lượng chính là than và thủy điện giảm sút nghiêm trọng và không đáp ứng nổi nhu cầu. Vào mùa thu năm 1945, ngành than chỉ cung cấp được 1 triệu tấn/tháng, chỉ đảm bảo được nhu cầu ở mức 1/4 - 1/3 tháng so với mức cung cấp trước chiến tranh. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này, như trên đã nói, là do những người Trung Hoa và Triều Tiên trước đó phải lao động khổ sai đã không chịu tiếp tục công việc, khiến cho các mỏ

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 11/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí