Cải cách kinh tế - Xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ - 2


kinh tế thế giới, Hà Nội năm 1991, Q1 tập 4); Cuốn “Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản” (Yoshihara Kunio, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991)’; Cuốn “Sogo Shosha - Đội tiền phong của nền kinh tế Nhật Bản” (Yoshihara Kunio, Ủy ban khoa học xã hội, Hà Nội, 1993),…

Trong quá trình thu thập và tìm hiểu các tài liệu, đặc biệt là những công trình trên, về các cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ, tác giả nhận thấy có một số điểm đáng chú ý sau:

- Các cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã được đề cập khá kỹ và toàn diện trong các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, song phần lớn các quan điểm được bày tỏ, dù không phải là không khách quan, lại là các quan điểm của các học giả nước ngoài, đứng trên lợi ích của họ, chứ không phải là của người Việt Nam, xuất phát từ lợi ích của Việt Nam để phân tích.

- Còn các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Việt Nam, lại chưa thấy có công trình nghiên cứu nào chỉ chuyên sâu về các cải cách kinh tế

- xã hội Nhật Bản trong giai đoạn này, mà thường được phân tích kết hợp với những cải cách khác (như cải cách chính trị trong tác phẩm của Hoàng Thị Minh Hoa) hoặc chỉ là một vấn đề trong nhiều vấn đề của Nhật Bản giai đoạn này (như tác giả Nguyễn Văn Kim, Lê Văn Sang hay Lưu Ngọc Trịnh).

Do đó, cái gọi là điểm mới hay đúng hơn là điểm khác (chứ không dám nói là phát triển) của Luận văn này là trình bày các cải cách kinh tế - xã hội này một cách có hệ thống hơn, tập trung hơn theo quan điểm của một người đứng cách xa các cải cách này tới 60 - 70 năm để đánh giá (cả bản thân các cải cách kinh tế - xã hội lẫn vai trò của Mỹ) và với mục đích rút ra một số bài học kinh nghiệm (cho tiến trình cải cách và mở cửa của Việt Nam hiện nay).


3. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở khái quát lại thực trạng kinh tế - xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Luận văn muốn nêu lên tính tất yếu buộc Nhật Bản phải cải cách kinh tế - xã hội, nội dung, tiến trình và kết quả cải cách cũng như vai trò của Mỹ trong tiến trình cải cách này, từ đó đưa ra một số đánh giá và bài học cơ bản từ tiến trình cải cách này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Là thực trạng những cải cách kinh tế - xã hội căn bản của Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ trong công cuộc cải cách đó.

- Phạm vi nghiên cứu: Trong thời gian ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cụ thể từ năm 1945 đến năm 1951, Nhật Bản đã tiến hành công cuộc cải cách toàn diện và rộng khắp về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục, phục hồi kinh tế, và ổn định chính trị xã hội tạo đà cho sự cất cánh kỳ diệu lần thứ hai vào những năm sau đó. Tuy vậy, ở đây, học viên chỉ tập trung vào việc nghiên cứu 3 cải cách kinh tế - xã hội căn bản nhất của Nhật Bản trong giai đoạn này, đó là việc thủ tiêu tình trạng tập trung sức mạnh kinh tế thái quá, cải cách ruộng đất ở nông thôn và cải cách lao động trong công nghiệp. Lý do là do năng lực của học viên còn nhiều hạn chế, do khuôn khổ của một Luận văn cao học không cho phép đề cập tất cả các cải cách kinh tế - xã hội và, thiết nghĩ, việc trình bày và phân tích sâu 3 cải cách này cũng đã lột tả được kinh tế - xã hội và thực chất của toàn bộ công cuộc cải cách của Nhật Bản sau chiến tranh. Ngoài ra, Luận văn cũng đã đề cập đến ở một mức độ nhất định vai trò của Mỹ trong tiến trình cải cách này.

5. Phương pháp nghiên cứu:


Trên cơ sở tập hợp và xử lý tư liệu, chủ yếu là các tư liệu thứ cấp, của các tác giả trong và ngoài nước, bằng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời, bằng cách tận dụng các phương pháp thống kê, phân tích, diễn giải và so sánh, Luận văn sẽ cố gắng xác định, trình bày, kiến giải một cách rò ràng các vấn đề mà chủ đề nghiên cứu đòi hỏi phải giải quyết.


sau:

6. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên đề tài có những nhiệm vụ


- Trình bày bối cảnh trong và ngoài nước Nhật Bản ngay sau Chiến

tranh thế giới thứ hai như là cơ sở và nguyên nhân dẫn đến những cải cách kinh tế - xã hội thời gian đó.

- Trình bày và phân tích những cải cách kinh tế - xã hội căn bản nhất của Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai; Chỉ rò và phân tích vai trò của Mỹ trong việc tiến hành các cải cách này của Nhật Bản trong những năm ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

- Đưa ra một số đánh giá và rút ra một số bài học kinh nghiệm từ tiến trình cải cách kinh tế - xã hội này của Nhật Bản.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Thực trạng kinh tế - xã hội Nhật Bản ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự cần thiết phải cải cách.

Chương 2: Một số cải cách kinh tế - xã hội căn bản của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai.


Chương 3: Vai trò của Mỹ và một số đánh giá, bài học rút ra từ tiến trình cải cách kinh tế - xã hội của Nhật Bản sau chiến tranh.


Chương 1


THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI NHẬT BẢN


SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI VÀ SỰ CẦN THIẾT

PHẢI CẢI CÁCH


Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản chấp nhận tối hậu thư của các nước Đồng minh, đã phải đầu hàng không điều kiện và buộc phải giải giáp toàn bộ lực lượng vũ trang của mình. Nhờ đó, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và thực sự mở ra một trang sử mới cho quá trình phát triển của Nhật Bản. Nhưng trang sử mới tiếp sau chiến tranh này có tốt đẹp hay không phụ thuộc phần lớn vào việc phục hồi và phát triển kinh tế và xã hội Nhật Bản lúc đó. Nhưng muốn nhanh chóng phục hồi và phát triển được nước Nhật nói chung và nền kinh tế Nhật Bản kiệt quệ do chiến tranh nói riêng, Nhật Bản phải có những cải cách căn bản nhằm tái lập lại một xã hội và một nền kinh tế bình thường. Người Nhật sau chiến tranh đã nhận thức được điều đó, họ thấy được sự tất yếu phải tiến hành những cải cách căn bản đó. Vậy, những cơ sở kinh tế

- xã hội trong và ngoài nước nào của Nhật Bản sau chiến tranh buộc và khiến Nhật Bản phải đề ra và quyết tâm thực hiện bằng được những cải cách căn bản về kinh tế và xã hội?

1.1. Sự cần thiết phải thay đổi mục tiêu phát triển


Cho đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản vẫn theo đuổi mục đích phát triển đất nước thông qua bành trướng lãnh thổ bằng các hành động xâm lược vũ trang. Việc xâm lược các nước châu Á láng giềng và tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai chính là vì mục đích đó. Từ khi nổ ra cuộc chiến tranh với Trung Hoa vào tháng 7 năm 1937 đến khi tuyên bố đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đã tung mọi lực lượng vào cuộc chiến.


Để thực hiện mục đích này, cùng với việc áp đặt sự kiểm soát gắt gao và tiến hành quân sự hoá nền kinh tế, cơ cấu công nghiệp cũng đã được chuyển thành một khu vực sản xuất rộng lớn phục vụ các mục đích quân sự. Trong phạm vi nước Nhật, đã có sự cải tổ lớn đối với các nghành công nghiệp dân sự, bắt đầu bằng việc nghành công nghiệp dệt và các doanh nghiệp nhỏ. Gần như tất cả các công ty thuộc các ngành dân sự này đều bị đóng cửa và tuyệt đại đa số nhà máy và thiết bị nghành dệt đã được biến thành sắt vụn để sản xuất thép. Các nhà máy được chuyển sang sản xuất đạn dược và quân trang, quân dụng. Các công ty và tất cả các nghành công nghiệp đều bị đóng cửa và nhân viên của họ đều bị cưỡng bức vào làm trong các cơ sở sản xuất đạn dược. Thép thiếu nhiều đến nỗi, ngay cả các lan can cầu và đường ray xe điện đều bị dỡ bỏ .

Các nhà máy sản xuất máy bay đã được mở rộng trên quy mô lớn vào giữa cuộc chiến tranh, chúng đã huy động rất nhiều thiết bị và nhân viên nhằm hoàn thành kế hoạch đề ra. Bảng 1.1 cho chúng ta cùng thấy một số dữ liệu về sức mạnh quân sự của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Trong thực tế, chỉ tồn tại một khu vực sản xuất tối thiểu phục vụ đời sống nhân dân và khu vực này cũng đã bị siết lại tới mức cùng kiệt. Trong trường hợp các hàng hóa công nghiệp khác, như thực phẩm, dệt, bột giấy và hóa chất, tất cả đều giảm mạnh vào đầu những năm 1940. Toàn bộ ngoại tệ mà các công ty kinh doanh có được đều phải nộp lại cho nhà nước để nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất quân sự và việc sử dụng ngoại tệ của họ cũng bị kiểm soát gắt gao. Chẳng hạn, nếu các công ty muốn nhập khẩu những nguyên liệu vật tư cần thiết cho sản xuất, đều phải xin phép chính

phủ cho từng trường hợp một.


Bảng 1.1: Sức mạnh quân sự của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai


Danh mục

1941

1942

1943

1944

1945

Máy bay (Chiếc)

6.174

10.185

20.028

26.507

5.823

Động cơ (chiếc)

13.022

18.498

35.368

40.274

6.509

Tàu chiến (tàu)

48

59

77

248

101

Tàu chiến A (tấn)

200.860

230.724

145.760

408.118

98.240

Súng trường (1000 cái)

729

440

630

827

209

Thuốc súng và thuốc nổ (tấn)


52.342


67.461


71.574


81.324


21.279

Tổng cộng (chỉ số giá trị thực tế, 1937=100)


474


659


923


1406


447

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

Cải cách kinh tế - Xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ - 2

Nguồn: Okazaki Bunkun (chủ biên), Kihon Kokuryoku Dotai Soran (Sổ tay về sức mạnh quốc gia cơ bản), Viện nghiên cứu kinh tế quốc dân, 1953. [41, tr.79]



- 14 -


Đồng thời, vào những năm tháng này, bất cứ một người nào có khả năng đều bị huy động triệt để. Vì có khoảng từ bốn đến năm triệu người đã được động viên vào các lực lượng vũ trang do đó tình trạng thiếu lao động cho sản xuất đã trở nên hết sức nghiêm trọng, Những thanh niên, đàn ông khỏe mạnh là lực lượng lao động chính trong từng gia đình, có khả năng nhất cũng bị đưa vào quân đội và xung trận làm bia đỡ đạn ngoài mặt trận. Không chỉ riêng nam giới được huy động mà cả phụ nữ cũng được lôi kéo vào các đội tình nguyện để làm việc trong các nhà máy. Hầu như tất cả các trường phổ thông cao trung đều phải nghỉ học và học sinh được phái đến các nhà máy làm việc. Trong khi đó, những người dân thường ở địa phương (chủ yếu là người già, phụ nữ chân yếu tay mềm và trẻ em) lại phải sống những ngày khốn khó, thiếu thốn với mối lo thường trực hàng ngày là mong sao tìm được chỗ trú ẩn an toàn để mong thoát khỏi các cuộc oanh tạc, giữ nguyên được mạng sống. Như vậy, có thể nói, để chuẩn bị cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế Nhật Bản đã bị quân sự hoá đến mức cao nhất có thể, nhằm phục vụ cho mục đích xâm lược và bành trướng lãnh thổ của mình. [41, tr. 71]

Việc huy động mọi nguồn lực cho chiến tranh đã khiến cho cuộc sống của người Nhật Bản ngày càng theo chiều hướng xấu đi. Các mặt hàng thiết yếu hàng ngày cực kỳ thiếu thốn, hầu như tất cả các mặt hàng đều được cung cấp theo khẩu phần và chẳng có gì để ăn nên mọi người làm việc trong các nhà máy quân sự đã phải bỏ ra ngoài tới các vùng nông thôn để tìm mua lương thực. Các tàu hỏa chật ních người với những bao tải trên lưng. Vì số lượng lương thực cung cấp không đủ sống nên buôn bán chợ đen và tình trạng hai giá tồn tại dai dẳng. Bỏ ra ngoài và mua lương thực ở các vùng nông thôn là vi phạm luật cung cấp lương thực, thực phẩm nhưng mọi người đều làm điều đó một cách công khai. Chất lượng cuộc sống giảm mạnh và liên tục.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/06/2022