Mối quan hệ giữa lam phát và tỷ lệ nợ xấu là cùng chiều. | 0.000 | Chấp nhận | |
H6 | Tỷ lệ nợ xấu tỷ lệ thuận với tỷ lệ thất nghiệp | 0.000 | Chấp nhận |
Có thể bạn quan tâm!
- Mối Tương Quan Giữa Lạm Phát Với Rủi Ro Tín Dụng
- Tổng Hợp Các Yếu Tố Nghiên Cứu
- Bảng Thống Kê Mô Tả Các Biến Quan Sát (Phụ Lục 2)
- Giải Pháp Cho Tăng Trưởng Tín Dụng An Toàn, Hiệu Quả
- Hạn Chế Và Đề Xuất Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo:
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
(Nguồn: Báo cáo phân tích dữ liệu từ phần mềm STATA)
4.5. Kết luận chương 4
Để có hướng nhìn tổng quát về tác động của các yếu tố đến RRTD, luận văn đã tiến hành phát thảo tóm tắt các yếu tố thông qua các nghiên cứu trước đây, rút ra được có 6 nhân tố tác động đến tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM. Từ đó, luận văn tiến hành xây dựng các giả thuyết nghiên cứu nhằm dự đoán, nhận định sơ bộ về tác động của các yếu tố đến RRTD. Để phân tích tác động của các yếu tố đến RRTD, chương 4 đã đưa ra mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, kết quả nghiên cứu cụ thể chứng minh cả 6 yếu tố tác động có ý nghĩa thống kê, trong khi tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều thì ba yếu tố còn lại là dự phòng RRTD, lạm phát và thất nghiệp lại có tác động thuận chiều lên tỷ lệ nợ xấu.
CHƯƠNG 5. GIẢI PHÁP CHO CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG NHẰM GÓP PHẦN HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Tỷ lệ nợ xấu hiện nay là hệ quả tất yếu của chất lượng tín dụng yếu kém ở các NHTM cộng với những biến động vĩ mô bất lợi trong giai đoạn gần đây, gắn liền với sự phát triển nóng của thị trường bất động sản, biến động thăng trầm của thị trường chứng khoán, tình trạng quản lý các Tập đoàn và Tổng công ty nhà nước, năng lực quản trị doanh nghiệp. Vì vậy để đảm bảo an toàn vốn vay, đảm bảo khả năng thu hồi nợ gốc và lãi đúng thời hạn, giảm thiểu nợ xấu cần phải thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém thuộc về bản thân ngân hàng đồng thời phát hiện và loại trừ những khả năng phát sinh nợ xấu từ phía khách hàng.
Theo kết quả nghiên cứu ở trên, tỷ lệ nợ xấu tăng cùng với tăng trưởng tín dụng và có tác động cùng chiều với lãi suất tiền gửi. Điều này cho thấy khả năng quản trị rủi ro và xử lý nợ xấu của các NHTM còn hạn chế. Chương này sẽ trình bày phần ứng dụng kết quả nghiên cứu và đưa ra một số đề xuất gợi ý nhằm kiểm soát các yếu tố tác động trên nhằm hạn chế nợ xấu tại các NHTM Việt Nam.
5.1. Định hướng phát triển của NHTM Việt Nam
Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các NHTM theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại hình, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến năm 2020 xây dựng được hệ thống các NHTM hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Bảo đảm các NHTM hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Phát triển hệ thống NHTM hoạt động an toàn và hiệu quả vững chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt
động ngân hàng thương mại. Phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và màng lưới phân phối phát triển hợp lý nhằm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình ngân hàng, tạo cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được tiếp cận một cách thuận lợi các dịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thời gian qua được triển khai quyết liệt, đúng lộ trình và là điểm sáng trong tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế. Nhờ các biện pháp cơ cấu lại hệ thống các Ngân hàng thương mại (NHTM) cùng với điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, tăng cường quản lý thị trường tiền tệ, an toàn của hệ thống tín dụng được bảo đảm, nguy cơ gây đổ vỡ, mất an toàn hệ thống đã được đẩy lùi.
Những kết quả đạt được ban đầu về cơ cấu lại các NHTM góp phần quan trọng trong việc ổn định hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ và tạo cơ sở đẩy nhanh cơ cấu lại các NHTM trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, các NHTM đã được đổi mới, nâng cao hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm toán nội bộ, rà soát, kiện toàn bộ máy, sắp lại hệ thống mạng lưới, cơ cấu lại hoạt động kinh doanh; từng bước định hướng chiến lược kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường công nghệ thông tin, hiện đại hóa công nghệ của ngân hàng.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày bốn điểm sáng nổi bật hỗ trợ tốt cho sự phát triển và tạo ra nhiều triển vọng cho hoạt động của hệ thống các NHTM trong năm 2015, bốn điểm nổi bật đó bao gồm: Chỉ thị 02 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về quyết tâm xử lý nợ xấu, cải tiến hoạt động của VAMC, mạnh mẽ tiến
hành sáp nhập, hợp nhất và mua lại ngân hàng (M&A) và lãi suất cho vay tiếp tục giảm.
Chỉ thị số 02/CT-NHNN ngày 28/1/2015
Chỉ thị 02 được đánh giá là bước đi quyết liệt của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. NHNN yêu cầu các NHTM xây dựng và báo cáo kế hoạch xử lý nợ xấu, bảo đảm đến ngày 30/6/2015 phải xử lý được ít nhất 60% nợ xấu cần xử lý theo kế hoạch năm 2015 và phải bán được 75% tổng số nợ xấu dự kiến sẽ bán cho VAMC trong năm 2015. Ngoài ra, Thống đốc NHNN cũng yêu cầu các NHTM nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về cơ cấu lại nợ, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; nghiêm cấm sử dụng biện pháp che giấu nợ xấu, phản ánh sai lệch chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh; nghiêm cấm lợi dụng việc xử lý nợ xấu để trục lợi, vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho các NHTM.
NHNN đã xác định một cách đúng đắn về bản chất và các giải pháp để xử lý nợ xấu, các giải pháp đưa ra hết sức phù hợp và nếu như coi việc xử lý nợ xấu là chỉ trông chờ vào sự cố gắng của các NHTM là không đủ.
Cải cách hoạt động của VAMC
Mô hình của VAMC chưa từng có trong tiền lệ, nhưng bước đầu đã phát huy hiệu quả tích cực trong việc xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM và hỗ trợ khó khăn cho khách hàng, qua đó khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn công cụ này trong việc xử lý nợ xấu.
Theo số liệu vừa công bố, từ tháng 10/2013 đến cuối năm 2014, VAMC đã mua tới 123.000 tỷ đồng nợ xấu của các NHTM. Quy mô này tương ứng với khoảng 3,3% tổng dư nợ của toàn hệ thống. Năm 2015, VAMC đặt mục tiêu sẽ mua
70.000 - 100.000 tỷ đồng nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống dự kiến sẽ tiếp tục “giảm” nữa qua kênh xử lý này.
Việc xử lý nợ xấu trong năm 2015 theo tác giả là sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là khi NHNN đề xuất “tăng quyền” cho VAMC. Được biết, NHNN đang hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan tới xử lý nợ xấu, đồng thời xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án mua, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường để VAMC thực hiện trong năm 2015. Theo chỉ đạo của NHHN, VAMC phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với NHTM trong việc thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, bán và xử lý nợ, tài sản bảo đảm đối với các khoản nợ xấu đã mua; hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay phục hồi sản xuất- kinh doanh, hoàn thiện các dự án dở dang; tiếp xúc, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia mua, xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm.
NHNN yêu cầu VAMC phân loại, đánh giá lại các khách hàng vay, tài sản bảo đảm và các khoản nợ đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ và có giải pháp xử lý phù hợp; triển khai thực hiện việc mua, bán nợ xấu theo cơ chế thị trường và phương án được duyệt.
Tăng cường năng lực tài chính (cơ cấu lại tài chính), đẩy mạnh tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thông qua mua bán, sáp nhập
Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính của các NHTM để bảo đảm các NHTM có đủ năng lực tài chính (về quy mô và chất lượng). Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTMNN.
Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Kiên quyết xử lý các NHTMCP yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản các NHTMCP theo quy định pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế - xã hội. Tạo điều kiện cho các NHTM mua, bán, hợp nhất,
sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn.
Việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thông qua M&A là cần thiết vì không chỉ giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM nói chung và hệ thống tín dụng nói riêng mà còn giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường.
Việc sáp nhập các ngân hàng được xem là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay trong kế hoạch giải quyết nợ xấu. Thời gian vừa qua, nhất là từ đầu năm đến nay, NHNN đã có nhiều giải pháp quyết liệt như thúc đẩy các ngân hàng thực hiện M&A, trong đó khuyến khích các ngân hàng lớn mua các ngân hàng nhỏ để hình thành ngân hàng khỏe mạnh hơn; NHNN mua lại ngân hàng yếu kém không tự tái cơ cấu được với giá 0 đồng, kiểm soát tỷ lệ chia cổ tức của các ngân hàng … Trong bối cảnh hiện nay, đây là những phương án tối ưu đối với NHNN. Nhưng theo đánh giá của tôi, NHNN vẫn còn khá “mềm” với các NHTM. Với tốc độ triển khai như hiện nay thì Đề án 254 (Đề án Tái cơ cấu hệ thống các NHTM giai đoạn 2011 – 2015) sẽ được hoàn thành vào cuối năm 2015.
Trước mắt, kế hoạch sáp nhập Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) vào Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), NHTM Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) và Ngân hàng phát triển Mê Kông (MDB) đã được xác định trong năm 2014 sẽ hoàn thành trong năm 2015. Ngoài ra, thêm hai thương vụ sáp nhập được nhắc đến gần đây liên quan đến hai NHTM Nhà nước là BIDV và VietinBank, sau khi hai ngân hàng này cho biết sẽ nhận thêm một ngân hàng khác trong quá trình tái cơ cấu thời gian tới. Đến tháng 6/2015 thì NHNN đã chỉ đạo thành công việc sáp nhập ngân hàng MHB vào BIDV, đây là một kết quả khả quan cho tiến trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trong thời gian tới.
Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và
uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam. Về lâu dài, nhà nước chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối hoặc tỷ lệ cổ phần lớn tại một số ít NHTMNN được cổ phần hoá tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng và yêu cầu quản lý, bảo đảm an toàn, hiệu quả của hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao nguyên tắc thương mại, kỷ luật thị trường trong hoạt động của các NHTM.
Định hướng giảm lãi suất cho vay khuyến khích khách hàng tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng
Định hướng mà Thống đốc NHNN đưa ra tại Chỉ thị số 01 ngày 27/1/2015 vừa qua là toàn hệ thống phấn đấu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung dài hạn thêm từ 1%/năm đến 1,5%/năm trong năm 2015.
Hiện mặt bằng lãi suất đã xuống khá thấp và sát với kỳ vọng lạm phát trong năm 2015, do vậy lãi suất huy động sẽ không còn nhiều dư địa để tiếp tục giảm mạnh trong năm 2015. Tuy vậy, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn có thể được giảm thêm từ 1-1,5% một cách chọn lọc tùy từng ngân hàng.
NHNN đã có 9 lần cắt giảm liên tiếp kể từ khi trần lãi suất huy động lần đầu tiên được thiết lập ở mức 14% vào tháng 10/2011. Theo đó, biểu lãi suất huy động của các ngân hàng cũng đã liên tục được điều chỉnh giảm trong quý II, ổn định trong quý III và lại tiếp tục giảm nhẹ trong quý IV năm 2014. Tuy nhiên một đặc điểm nổi bật trong năm 2014 là xu hướng giảm lãi suất đã phân hóa rất mạnh trong hệ thống ngân hàng.
Tại thời điểm cuối năm 2014, lãi suất huy động của các NHTM phổ biến ở mức dưới 1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng khoảng 4-6%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng trở lên khoảng 6- 8%/năm. Song hành cùng diễn biến giảm của lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay trong năm 2014 tiếp tục xu hướng giảm so với năm 2013 (khoảng 2-2,5%). Đây là năm thứ ba liên tiếp, lãi suất có xu hướng giảm. Lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 7-9%; trung và dài hạn ở mức 10-13%; “trần lãi suất” cho vay 5
lĩnh vực ưu tiên gồm nông nghiệp nông thôn, công nghiệp phụ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao giảm thêm 2% so với cuối năm 2013, hiện chỉ còn 7%/năm.
Với dự báo lạm phát ở mức quanh 4-5% trong năm 2015, chính sách tiền tệ sẽ được NHNN điều hành theo hướng thận trọng nhưng linh hoạt. Hiện mặt bằng lãi suất đã xuống khá thấp và sát với kỳ vọng lạm phát trong năm 2015, do vậy lãi suất huy động sẽ không còn nhiều dư địa để tiếp tục giảm mạnh trong năm 2015. Tuy vậy, mặt bằng lãi suất cho vay vẫn có thể được giảm thêm 1-1,5% một cách chọn lọc tùy từng ngân hàng.
Lợi thế sẽ thuộc về các ngân hàng có lãi suất huy động bình quân thấp nhờ lượng tiền gửi không kỳ hạn lớn và các ngân hàng đã hạch toán đáng kể nợ xấu nên chi phí dự phòng rủi ro phải trích thêm không còn quá nhiều. Bức tranh phân hóa trong ngành ngân hàng theo đó sẽ ngày càng phân hóa rõ nét.
Bên cạnh đó, theo định hướng của NHNN, tăng trưởng tín dụng trong năm 2015 sẽ ở mức từ 13-15%, tăng nhẹ so với mức 12-14% trong năm 2014, đây là một mục tiêu tương đối “vừa phải” với sức hấp thụ của nền kinh tế hiện nay, thể hiện sự điều hành thận trọng của NHNN muốn tín dụng đi vào các lĩnh vực sản xuất trực tiếp thay vì chảy vào các lĩnh vực tăng trưởng nóng, dễ tạo ra bong bóng. Về cơ cấu, tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu và bất động sản có thể sẽ là các lĩnh vực dẫn đầu mức tăng trưởng trong năm 2015.
5.2. Giải pháp kiểm soát các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam
5.2.1. Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
5.2.1.1. Giải pháp cho tăng trưởng GDP, lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp
Qua hai thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã kiểm định các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cho vay của ngân hàng. Tại các nền kinh tế lớn, cơ sở lý thuyết khẳng định điều kiện kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng đến RRTD. Sự ổn