định kinh tế vĩ mô và hệ thống ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau, chính vì vậy, những diễn biến bất lợi của nền kinh tế sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nợ xấu. Đối với hầu hết các nền kinh tế, các bất ổn kinh tế được truyền dẫn vào hệ thống ngân hàng và khi hệ thống ngân hàng thẩm thấu hoàn toàn các bất ổn kinh tế, thì đến lượt nó sẽ tác động và khuếch đại các bất ổn kinh tế. Do đó, để nền kinh tế thực sự ổn định, cần thiết phải có những chính sách điều tiết kinh tế phù hợp và giảm thiểu tính dễ đỗ vỡ của hệ thống ngân hàng trước những cú sốc bên ngoài (Tandon Committe, 1998)
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố tăng trưởng GDP có ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay. Ngoài ra, các nguyên nhân khách quan khác như thiên tai, hỏa hoạn, sự thay đổi của các chính sách quản lý kinh tế, sự điều chỉnh quy hoạch vùng, ngành, sự biến động thị trường trong và ngoài nước, sự thay đổi quan hệ cung cầu hàng hóa … khiến khách hàng lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Từ đó, khách hàng dù cho có thiện chí nhưng vẫn không thể trả được nợ ngân hàng Do đó, ngân hàng cần phải có bộ phận theo dõi dự báo các điều kiện này.
Khi Chính phủ đưa ra những chính sách kích cầu chẳng hạn như tung ra gói hỗ trợ kích thích kinh tế, các NHTM cần có kế hoạch phân bổ nguồn vốn từ NHNN hợp lý, tập trung giải ngân vào các lĩnh vực ưu tiên. Đối với các doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện, NHTM thẩm định doanh nghiệp kỹ, tránh để xảy ra tình trạng dòng vốn chảy vào lĩnh vực tiêu dùng, cần tìm cách đưa dòng vốn chảy nhiều vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông qua kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, đảm bảo các doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích, duy trì sự ổn định, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Các NHTM Việt Nam cần phải có các phương án đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay của khách hàng, sẵn sàng đối thoại cùng doanh nghiệp để hai bên tìm ra giải pháp tốt nhất cho việc vay vốn an toàn, kinh doanh hiệu quả, trả nợ khả thi.
5.2.1.2. Giải pháp cho quy mô ngân hàng
Nhà quản lý ngân hàng cần tránh tình trạng vì mục đích cạnh tranh mà mở rộng quy mô tràn lan trong khi bản thân ngân hàng không đủ khả năng kiểm soát. Điều này có thể giúp ngân hàng tăng trưởng tín dụng nhưng kèm theo đó là RRTD sẽ tăng lên tương ứng và ảnh hưởng đến lợi nhuận mà ngân hàng đạt được dẫn đến cái được không bù được cái mất. Do đó, khi quyết định mở rộng quy mô thì ngân hàng cần đảm bảo tuân thủ đầy đủ điều kiện của NHNN theo Thông tư 21/2013/TT- NHNN quy định điều kiện mà các NHTM phải tuân thủ khi muốn thành lập chi nhánh hoặc phòng giao dịch. Bên cạnh đó, bản thân ngân hàng cần tự đánh giá khả năng và nguồn lực của mình khi đi đến quyết định mở rộng quy mô.
Tùy theo năng lực, các ngân hàng thương mại cần đưa ra chính sách tín dụng hợp lý, tăng trưởng tín dụng trong phạm vi mức độ có thể kiểm soát được và vẫn đảm bảo chất lượng khoản vay.
5.2.1.3. Giải pháp cho dự phòng rủi ro tín dụng
Có thể bạn quan tâm!
- Tổng Hợp Các Yếu Tố Nghiên Cứu
- Bảng Thống Kê Mô Tả Các Biến Quan Sát (Phụ Lục 2)
- Giải Pháp Cho Các Yếu Tố Tác Động Đến Rủi Ro Tín Dụng Nhằm Góp Phần Hạn Chế Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Hạn Chế Và Đề Xuất Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo:
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam - 12
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam - 13
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
Quy định hiện nay của NHNN về đánh giá chất lượng nợ và trích lập dự phòng rủi ro trong các ngân hàng thương mại theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Thông tư 02/2013/TT-NHNN (chỉnh sửa bổ sung QĐ 493). Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn chưa hợp lý và đầy đủ vì thực tế không ít các ngân hàng đã hạn chế phân loại nợ xuống nhóm nợ xấu để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhằm tránh ảnh hưởng đến lợi nhuận của mình. Bên cạnh đó, rất nhiều trường hợp tỷ lệ nợ xấu tăng nhưng tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng lại giảm. Ví dụ như tại Habubank, ngân hàng này báo cáo nợ xấu là 4.69% vào cuối năm 2011, nhưng khi sáp nhập với SHB thì con số này là 16%. Thực tế đang có sự khác biệt lớn trong phân loại nợ theo VAS và theo IAS, ví dụ theo NHNN, các ngân hàng tại thời điểm tháng 08/2011có tỷ lệ nợ xấu 3.1% là ngưỡng an toàn, nhưng theo chuẩn mực quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam lên đến 13% tổng dư nợ. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước cần có những quy định chặt chẽ và phù hợp hơn về
việc đánh giá và phân loại nợ cho các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cung cấp những gợi ý trong việc đưa ra các quy định như:
Mở rộng ứng dụng khuôn khổ Basel II nhằm nhấn mạnh đến việc xử lý những khoản tổn thất dự kiến bị che đậy bởi các khoản trích lập dự phòng rủi ro tín dụng dẫn đến những rủi ro mất vốn. Đồng thời qua đó có thể nâng cao chuẩn mực kế toán hướng tới tương lai và linh hoạt hơn cho phép thực hiện bảo hiểm đầy đủ cho các khoản tổn thất dự kiến thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín dụng.
NHNN cần có những quy định, giải pháp hướng dẫn cụ thể giúp NHTM có thể nhanh chóng triển khai thực hiện Thông tư 02 trong thời gian ngắn sau khi kết thúc thời gian hoãn thực hiện. Việc nhanh chóng thực hiện Thông tư 02 là cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro, về dài hạn sẽ giúp cho hệ thống NHTM Việt Nam an toàn, minh bạch và góp phần làm trong sạch hơn cho hệ thống tín dụng nhiều rủi ro hiện nay. Mặc dù việc áp dụng Thông tư 02 sẽ mang lại những khó khăn ban đầu cho ngân hàng cũng như nhiều quan ngại khi nền kinh tế còn khó khăn hiện nay. Tuy nhiên, sau một năm hoãn thi hành thì hiện nay các ngân hàng đều sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng cho việc triển khai thực hiện thông tư này. Bên cạnh đó, khi áp dụng thông tư thì nền kinh tế có thể sẽ khó khăn trong thời gian đầu nhưng về lâu dài thì nó sẽ tạo nên cơ sở ổn định cho sự phát triển của nền kinh tế nhờ vào sự an toàn, minh bạch của hệ thống tín dụng trong NHTM Việt Nam.
Quy định tỷ lệ nhất định cho các tỷ số tài chính như quy mô ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản, hệ số rủi ro tài chính và yêu cầu các ngân hàng phải đảm bảo những tỷ lệ đó khi tiến hành trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong ngân hàng nhằm đảm bảo tính hợp lý của khoản mục dự phòng rủi ro tín dụng trong báo cáo tài chính của ngân hàng
5.2.1.4. Giải pháp cho tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả
Trong giai đoạn suy thoái kinh tế, hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, các đơn vị hoạt động kinh doanh kém hiệu quả sẽ khó có khả năng đứng vững trước thử thách khốc liệt của thị trường khi mà sức mua suy giảm,
cạnh tranh tăng mạnh, nguồn vốn vay hạn chế hoặc với giá cao do chính sách thắt chặt tiền tệ. Do đó, ngân hàng nên có những biện pháp đánh giá, lựa chọn những phương án vay vốn có tính khả thi và hiệu quả, tránh đầu tư tràn lan vào những lĩnh vực có tính thanh khoản kém như bất động sản hoặc cho vay vào các công ty sân sau của cổ đông hoặc các nhà quản lý.
Các NHTM nên có chính sách áp dụng lãi suất ưu đãi đối với nhóm khách hàng được đánh giá tốt và các khách hàng có tiềm năng đứng vững và phát triển trong tương lai; điều này giúp giữ vững mục tiêu kinh doanh an toàn và hiệu quả trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ và tiết giảm chi phí hoạt động của NHTM, chống lãng phí. Các NHTM phải rà soát, cơ cấu lại tổ chức bộ máy và hệ thống mạng lưới theo hướng tinh gọn, hiệu quả.
5.2.2. Giải pháp đối với khách hàng
Các chủ thể trong nền kinh tế khi muốn tham gia quan hệ tín dụng với NHTM cần có chiến lược phát triển kinh doanh cụ thể, phù hợp vói yêu cầu thị trường. Chủ động trong việc xây dựng dự án, phương án đầu tư khả thi, hiệu quả, tương xứng với năng lực quản lý về vốn, công nghệ và con người, đồng thời có kế hoạch tài chính để đảm bảo thanh toán nợ vay.
Khách hàng phải có thiện chí và cùng cộng tác với ngân hàng trong quan hệ giao dịch tín dụng. Các doanh nghiệp chấp hành nghiêm túc quy định về pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện kiểm toán bắt buộc, nhằm tăng tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính để cung cấp những thông tin đúng và đầy đủ. Khi đã được phê duyệt cấp tín dụng, tiếp cận với nguồn vốn vay, khách hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay theo đúng mục đích và phương án ban đầu, phải luôn tuân thủ các cam kết đã ký với ngân hàng, tránh gây tổn thất cho ngân hàng cấp tín dụng.
Các doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia sản xuất kinh doanh nên trang bị những kiến thức cần thiết về tình hình kinh tế - xã hội trong nước và thế giới, các chính sách tài khóa – tiền tệ của chính phủ cũng như nguồn tài chính cần thiết để có những biện pháp ứng phó kịp thời khi xảy ra biến động nền kinh tế vĩ mô.
5.2.3. Giải pháp hỗ trợ
Khi nợ xấu tăng, RRTD sẽ tăng và lợi nhuận của các ngân hàng sẽ giảm. Chính vì vậy, các ngân hàng cần phải quản lý tốt các khoản tín dụng. Để kiểm soát và giảm thiểu nợ xấu, các NHTM cần thực hiện các giải pháp dưới đây:
Về lãi suất cho vay
Các NHTM cần có những chính sách lãi suất cho vay phù hợp với đối tượng khách hàng, hiệu quả của phương án vay và lĩnh vực kinh doanh:
Nghiên cứu cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về vấn đề lãi suất cho vay cao thông qua ảnh hưởng của mặt bằng lãi suất huy động cao góp phần tác động làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp trong giai đoạn suy thoái và sau cùng là sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu tại các NHTM.
Do đó, bên cạnh chính sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát, NHNN cần có chính sách riêng về giảm lãi suất vay, tạo điều kiện hỗ trợ lãi suất đối với các lĩnh vực ít chịu tác động của khủng hoảng, các đối tượng khách hàng có phương án kinh doanh khả thi. Bên cạnh đó, có thể sử dụng công cụ lãi suất để hạn chế cho vay đối với các lĩnh vực không ưu tiên như kinh doanh bất động sản, chứng khoán.
Trong thời kỳ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để kiềm chế lạm phát, trong khi kinh tế đất nước đang rơi vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; NHNN phải kiên định với chính sách tiền tệ, việc điều chỉnh giới hạn lãi suất cho vay chỉ được áp dụng khi đưa ra các tiêu chí đánh giá cụ thể và chặt chẽ, đồng thời thường xuyên kiểm tra các NHTM để bảo đảm cho vay đúng đối tượng, lĩnh vực được ưu tiên.
Ngoài ra, NHNN có thể thực hiện chỉ đạo các NHTM tiết kiệm chi phí nhằm chia sẻ khó khăn cho doanh nghiệp thông qua giảm lãi suất cho vay đối với cả lĩnh vực ưu tiên và các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác.
Chấp hành đúng quy trình cho vay:
Thực hiện đúng quy trình cho vay, thường xuyên cập nhật thông tin về khách hàng, thực hiện việc định kỳ hạn nợ chính xác, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, thực hiện việc đánh giá, phân loại nợ để định hướng mức độ rủi ro và phải được thực hiện ngay khi xem xét cho vay, thực hiện tốt công tác chấm điểm, xếp loại khách hàng, kiểm tra giám sát sau khi cho vay. Các ngân hàng phải xác định số lượng khách hàng và dư nợ phù hợp với trình độ, kinh nghiệm và khả năng quản lý của từng nhân viên tín dụng để thực hiện tốt việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay.
Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng:
Việc đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sẽ giúp các ngân hàng phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, doanh thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao cho dù tín dụng là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, việc thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bên cạnh sản phẩm tín dụng truyền thống sẽ giúp cho các ngân hàng phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Trong thực tế cũng chứng minh rõ, thu dịch vụ có tính ổn định cao, bảo đảm an toàn trong hoạt động và hiệu quả cao.
Nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý
Sự yếu kém về năng lực chuyên môn, sự suy thoái đạo đức nghề nghiệp và tâm lý ỷ lại của phần lớn cán bộ tín dụng là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng khoản vay. Để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng cần phải có đội ngũ cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý có năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và tận tụy với công việc. Ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Ngoài ra, vấn đề quản lý, sử dụng, đãi ngộ cán bộ chưa thỏa đáng cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng phải có chế độ quản lý, đãi ngộ cán bộ hợp lý.
Tăng cường, duy trì công tác kiểm tra, giám sát và kiểm tra chuyên đề đối với hoạt động tín dụng
Thường xuyên thực hiện kiểm tra, giám sát việc chấp hành quy trình, thủ tục cho vay, kịp thời phát hiện các tồn tại, sai phạm, các lỗ hổng trong hoạt động tín dụng để đề ra các giải pháp chấn chỉnh kịp thời, phù hợp.
Tích cực theo dõi thu hồi nợ gốc và lãi vay
Khi khoản vay đã được giải ngân, cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm kiểm tra định kỳ việc thực hiện trả nợ, đôn đốc việc trả nợ khi khoản nợ đó đã quá hạn theo kế hoạch trả nợ mà không có sự điều chỉnh.
Giám sát nợ xấu một cách có hiệu quả thông qua hoạt động phân tích, phân loại nợ xấu theo định kỳ
Để việc xử lý nợ xấu được kịp thời, đạt được hiệu quả cao thì khâu cảnh báo, phát hiện sớm nợ xấu phát sinh là rất quan trọng, quyết định trực tiếp đến quá trình xử lý nợ sau này. Các ngân hàng thường xuyên kiểm tra, phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân phát sinh nợ xấu, làm rõ trách nhiệm của cá nhân có liên quan; nhất là ở những đơn vị, cá nhân phụ trách có tỷ lệ nợ xấu tăng nhanh, gắn trách nhiệm thu hồi nợ xấu, nợ đã xử lý rủi ro với trách nhiệm của cá nhân trong cho vay.
Cơ cấu lại nợ cho khách hàng trên cơ sở nguồn thu đảm bảo, chắc chắn và phương án trả nợ cơ cấu khả thi
Đối với các khoản nợ xấu phát sinh do nguyên nhân khách quan nhưng chưa phải là bất khả kháng, khách hàng còn tồn tại và hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường và ngân hàng có đủ thông tin để đánh giá khách hàng có khả năng phát triển trong tương lai, thì ngân hàng có thể xem xét thực hiện việc cơ cấu lại nợ cho khách hàng nhằm giảm bớt sức ép trả nợ đến hạn, giúp cho khách hàng có được cơ hội để tiếp tục sản xuất kinh doanh và có nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng.
Bán các khoản nợ xấu
Bằng việc tham gia thị trường mua bán nợ, ngân hàng có thể xem xét bán các khoản nợ xấu cho các công ty mua bán nợ, các ngân hàng hoặc các chủ thể kinh tế khác theo quy định hiện hành.
Thực hiện tái cấu trúc:
Tập trung quyết liệt vào việc thực hiện tái cấu trúc, trong đó đặc biệt chú trọng đến các giải pháp kiểm soát, quản lý rủi ro hoạt động bao gồm rủi ro hệ thống và “rủi ro về mặt đạo đức” trong hệ thống ngân hàng, ngăn ngừa hiện tượng chấp nhận rủi ro bất hợp lý của các ngân hàng tái diễn trong tương lai. Bởi vì, trong thực tế cho thấy, hệ quả của nợ xấu tăng cao như hiện nay có một phần nguyên nhân các NHTM đã buông lỏng quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro về mặt đạo đức. Tình trạng sở hữu chéo theo “mô hình mạng nhện” đang tồn tại, một số NHTM là “sân sau” của các tổng công ty lớn. Tình trạng các nhân viên ngân hàng phạm pháp ngày càng gia tăng. Điều đó chứng tỏ đạo đức của một số nhân viên ngân hàng xuống cấp trầm trọng. Đó cũng là một trong những hệ quả dẫn đến tỷ lệ nợ xấu gia tăng. Việc tái cấu trúc hệ thống NHTM nhằm từng bước giảm nợ xấu và ngăn chặn tỷ lệ nợ xấu tăng trong tương lai cần phải được giải quyết một cách quyết liệt.
5.3. Kiến nghị
5.3.1. Đối với Chính phủ
Các nhân tố kinh tế vĩ mô là các nhân tố kinh tế cơ bản của một nền kinh tế và chịu sự chi phối chủ yếu bởi các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cũng như các chính sách liên quan đến tỷ giá hối đoái. Do đó, để đảm bảo được tính ổn định của các nhân tố kinh tế vĩ mô thì các chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá hối đoái cũng cần phải ổn định và nhất quán. Để tránh gây ra những cú sốc bất ngờ, các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải được điều hành theo nguyên tắc cân bằng thị trường tài chính thay vì các biện pháp hành chính. Cân bằng thị trường tài chính ở đây là sự phát triển đồng bộ, hiệu quả thị trường tài chính dựa trên 3 trụ cột là thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối trên nền tảng là sự