Các tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật trong sự so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - 2


nhóm tội chứ chưa nghiên cứu một cách độc lập đầy đủ và toàn diện, có hệ thống cho từng nhóm tội. Tình hình các tội xâm phạm sở hữu hàng năm có xu hướng tăng, nhất là cướp, cướp giật, trộm cắp... các quy định hiện hành của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 còn thể hiện những bất cập gây khó khăn khi giải quyết vụ án đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực tiễn đối với nhóm tội này trong sự so sánh đánh giá giữa pháp luật hình sự phong kiến, một bộ luật được coi là đỉnh cao so với những thành tựu pháp luật của các triều đại và Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành không chỉ đóng góp đáng kể cho việc khai thác và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, truyền thống pháp luật của nhà nước Việt Nam cổ xưa mà còn có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu hiện nay thông qua việc rút ra các bài học lịch sử.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trong hai bộ luật: Quốc triều hình luật thời Lê và Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở đó có thể thấy được những mặt tồn tại hạn chế của pháp luật hình sự thời phong kiến, đồng thời cũng thấy được sự kế thừa phát huy những nội dung tiến bộ, phù hợp với xu hướng của thời đại của Bộ luật hình sự năm 1999 từ Quốc triều hình luật. Từ đó, rút ra được những kết luận mang ý nghĩa bài học lịch sử cho việc xây dựng pháp luật hình sự hiện hành đối với nhóm tội này nói riêng và các nhóm tội khác nói chung; đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về nhóm tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:


- Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển trong các quy định liên quan đến nhóm tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay và đưa ra những nhận xét, đánh giá;

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhóm tội xâm phạm sở hữu trong đó làm rõ khái niệm, đặc điểm của nhóm tội này trong pháp luật hình sự thời Lê, sự khác biệt cơ bản so với pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự thời Lê trong Quốc triều hình luật, rút ra được những kết luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn khi xây dựng và hoàn thiện các quy định về nhóm tội xâm phạm sở hữu trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, tìm ra những mặt đạt được và những hạn chế tồn tại;

- Đưa ra một số kết luận mang ý nghĩa lịch sử góp phần bổ sung, hoàn thiện quy định về nhóm tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, không làm oan người vô tội.

Các tội xâm phạm sở hữu trong Quốc triều hình luật trong sự so sánh với Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - 2

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển của nhóm tội xâm phạm sở hữu được quy định từ pháp luật hình sự thời Lê, Quốc triều hình luật đến Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, các vấn đề pháp lý liên quan đến nhóm tội này, kinh nghiệm lịch sử được rút ra từ Quốc triều hình luật để xây dựng pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay ở các góc độ lý luận cũng như xây dựng pháp luật hình sự nước nhà trong giai đoạn 2010-2020 theo đường lối chính sách xây dựng và phát triển quốc gia của Đảng và Nhà nước.

4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các yêu cầu của đề tài, Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:


- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách Hình sự, về cải cách tư pháp trong các Nghị quyết Đại hội Đảng, các Nghị Quyết về cải cách tư pháp của Bộ chính trị…

- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:

(i) Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp lịch sử được sử dụng theo chiều dọc của các chương khi nghiên cứu, so sánh những vấn đề lý luận liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu trong hai bộ luật;

(ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp bình luận, phương pháp đối chiếu cũng được sử dụng tại Chương 1 và chương 2 khi tìm hiểu về quy định của Quốc triều hình luật và Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về các tội xâm phạm sở hữu;

(iii) Phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải, phương pháp dự báo được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu định hướng và rút ra các bài học lịch sử về các tội xâm phạm sở hữu đối với Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.

5. Những điểm mới đóng góp của luận văn

- Đề tài là công trình chuyên khảo có hệ thống ở mức độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu làm rõ những bài học kinh nghiệm mang tính lịch sử về việc xây dựng các quy định liên quan đến nhóm tội xâm phạm sở hữu trong mối tương quan phát huy những di sản văn hóa dân tộc, các truyền thống pháp luật của nhà nước Việt Nam cổ xưa.

- Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập,


đồng thời cung cấp cho các học giả khác những kiến thức chuyên sâu hơn khi so sánh các bộ luật liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự trên thực tế.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm 2 chương:

- Chương 1. Các quy định về tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và các quy định tương ứng trong Quốc triều hình luật;

- Chương 2. So sánh các quy định về tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và các quy định tương ứng trong Quốc triều hình luật.

Trong quá trình thực hiện bản luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Hoàng Văn Hùng và các thầy cô giáo giảng dạy lớp cao học luật hình sự và tố tụng hình sự K19 Khoa luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình nghiên cứu, nhưng do thời gian và khả năng có hạn; nên bản luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các bạn để luận văn được hoàn chỉnh hơn.


Chương 1

CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ CÁC QUY ĐỊNH TƯƠNG

ỨNG TRONG QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT


1.1. Các quy định về tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

1.1.1. Bối cảnh ra đời Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 là bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trong suốt giai đoạn thi hành thực tế 15 năm (1985-1999), bộ luật đã khẳng định được vai trò đặc biệt tích cực trong đấu tranh quyết liệt phòng chống tội phạm ở nước ta suốt thời kỳ lịch sử lâu dài xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân với hai cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc xâm lược và đấu tranh chống các lực lượng thù địch trong nước, xây dựng cuộc sống mới.

Sự ra đời của BLHS năm 1985 cũng đánh dấu bước phát triển cao của pháp luật hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Từ những văn bản có tính tản mạn, riêng lẻ về từng vấn đề, từng lĩnh vực cụ thể mà tất cả đều là dưới luật, cao nhất chỉ có 5 pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành vào những năm 1967-1970 và những năm đầu của thập kỷ 80, BLHS năm 1985 là văn bản pháp luật Việt Nam đầu tiên được thể hiện dưới hình thức Bộ luật là hình thức lập pháp cao của thế giới nói chung.

Tuy nhiên, do được xây dựng và ban hành trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội trong nước cũng như tình hình quốc tế có nhiều điểm khác cơ bản so với giai đoạn hiện nay, mặc dù đã qua bốn lần sửa đổi bổ sung, nhiều quy định


của Bộ luật hình sự đã trở nên bất cập, không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới. Đồng thời, kết quả tổng kết thi hành pháp luật hình sự cũng cho thấy, một số quy định của BLHS năm 1985 phản ánh điều kiện, hoàn cảnh lúc bấy giờ đã bộc lộ những bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới.

Bộ luật hình sự của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2000 đã ra đời nhằm thay thế, khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1985.

Nhìn chung, so với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã được sửa đổi một cách toàn diện, thể hiện chính sách hình sự mới của Nhà nước ta đối với tội phạm nói chung và nhóm tội xâm phạm sở hữu nói riêng. So sánh hai bộ luật, có thể rút ra một số điểm mới giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 1985 như sau:

Thứ nhất, BLHS năm 1999 đã nhập hai chương IV và VI của Bộ luật hình sự năm 1985 vào thành một chương (chương XIV) với 13 tội danh. Việc quy định các tội xâm phạm sở hữu XHCN và sở hữu riêng của công dân vào một chương tội phạm với những khung hình phạt giống nhau phù hợp với chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng một số tội phạm được chuyển sang chương khác, đó là Tội tham ô tài sản XHCN (Điều 133 BLHS) và Tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 156 BLHS) được chuyển sang chương XXI (các tội phạm về chức vụ, các Điều 278 và Điều 280 BLHS). Các tội xâm phạm sở hữu còn lại về cơ bản được quy định giống như các tội phạm qui định tại chương IV và VI Bộ luật hình sự 1985,


tuy nhiên Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 137a, BLHS 1985) được gộp vào với các Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139, BLHS 1999) và Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142, BLHS 1999). Ngược lại, có một số tội phạm được tách ra quy định thành hai tội phạm, đó là: Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 131 và 154 BLHS 1985) được quy định thành hai tội ở hai điều luật khác nhau, Tội cướp giật tài sản (Điều 136, BLHS 1999) và Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137, BLHS 1999).

Thứ hai, về hình phạt, điểm khác biệt so với Bộ luật hình sự năm 1985 là việc định lượng tài sản bị xâm hại để phân biệt tội phạm với vi phạm, mức tối thiểu được quy định giá trị tài sản bị thiệt hại là 500.000 đồng (sau này nâng lên 2.000.000 đồng) sẽ bị truy cứu TNHS. Ngoài ra có thể truy cứu TNHS đối với người chiếm đoạt tài sản giá trị dưới 500.000 đồng trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xóa án mà còn vi phạm. Mức tối thiểu tài sản bị thiệt hại này không quy định đối với các Tội cướp tài sản, Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội cướp giật tài sản, Tội cưỡng đoạt tài sản vì những tội phạm này ngoài việc xâm hại đến sở hữu còn xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Riêng đối với các tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, thì thiệt hại từ 50.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu TNHS.

Thứ ba, là đa số các tội xâm phạm sở hữu được quy định thành bốn khung hình phạt thay vì có ba khung như trong quy định của BLHS năm 1985 và mức thiệt hại về tài sản là căn cứ để phân chia thành các khung hình phạt. Thông thường, thiệt hại về tài sản được chia thành các mức sau đây để quy định khung hình phạt: từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng; từ


50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; từ 20.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng và từ 500.000.000 đồng trở lên.

Thứ tư, đối với hình phạt tử hình chỉ còn được giữ lại ở hai tội: tội cướp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, so với BLHS 1985 đã xóa bỏ loại hình phạt này ở hai tội phạm đó là: tội trộm cắp tài sản và tội cố ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản. Hình phạt chung thân còn được quy định ở hai tội phạm: tội cướp giật và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Thứ năm, hình phạt tiền được quy định đa số với các tội xâm phạm sở hữu, phạt tiền là hình phạt chính được quy định trong chế tài lựa chọn đối với tội sử dụng trái phép tài sản (điều 142). Các tội chiếm đoạt, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, phạt tiền được quy định là hình phạt bổ sung. Mức phạt tiền được quy định tùy theo tính chất của từng tội phạm cụ thể với mức tối thiểu là 5.000.000 đồng và cao nhất là 100.000.000 đồng.

Việc quy định của BLHS 1999 về các tội xâm phạm sở hữu thể hiện chính sách hình sự nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay trong việc trừng trị các hành vi xâm hại tới sở hữu XHCN và sở hữu, bảo vệ nghiêm ngặt tài sản XHCN, tài sản công dân, trừng trị kết hợp với khoan hồng, lấy việc giáo dục cải tạo người phạm tội là mục đích chính, chủ yếu, lâu dài. Những điểm khác biệt so với BLHS năm 1985 trong chính sách hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu phản ánh sự đổi mới, phát triển của xã hội ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay: từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước, theo định hướng XHCN, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền của công dân, do dân, vì dân và đang trên đà hội nhập khu vực và quốc tế. Việc quy định tội xâm phạm sở hữu vào một chương trong BLHS đã thể hiện nguyên tắc bình đẳng

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/11/2023