triển số lượng và giá trị của khối tài sản trí tuệ quốc gia, nâng cao năng lực sáng tạo và sức cạnh tranh của nền kinh tế [8]. Vì vậy, pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT cũng cần phải hoàn thiện ở cấp độ cao hơn để đảm bảo hiệu quả áp dụng, phù hợp với mục tiêu trên.
4.2.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Hoàn thiện quy định pháp luật là yêu cầu khách quan của quá trình phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Pháp luật hình sự nói chung, quy định về các tội xâm phạm SHTT nói riêng cũng là một bộ phận của pháp luật Việt Nam, do vậy, không thể nằm ngoài xu thế này. Việc hoàn thiện pháp luật về các tội xâm phạm SHTT cần phải đáp ứng các yêu cầu:
Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa kịp thời quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Vấn đề tạo lập cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là chủ trương nhất quán và lâu dài của Đảng ta. Trong giai đoạn mới, một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được nêu lên trong Báo cáo đánh giá kinh tế của Đại hội Đảng lần thứ 13 cũng đã đề xuất “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”. Nghị quyết Đại hội 13 được thông qua cũng nêu rõ 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, một trong những nhiệm vụ kinh tế được nhấn mạnh đó là: “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.”
Trước đó, ngày 22/8/2019 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1068/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030. Chiến lược nêu nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên là “hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ” với một trong số các yêu cầu là: rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT và pháp luật liên quan, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sáng tạo, bảo hộ, khai thác và bảo vệ quyền SHTT, đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong xã hội, ngăn chặn hiệu quả việc lạm dụng quyền SHTT.
Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong hoàn thiện pháp luật về SHTT nói chung, không chỉ là kim chỉ nam định hướng cho mục tiêu xây dựng, áp dụng các quy định pháp luật ngay tại một thời điểm mà còn thể hiện tầm nhìn chiến
lược đối với sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực, thậm chí là tổng thể chúng trong phát triển các quan hệ xã hội. Do đó, tinh thần và nội dung pháp luật hình sự về tội xâm phạm SHTT được hoàn thiện không chỉ có tác dụng giải quyết vấn nạn hiện tại mà còn phải mở đường cho xu hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, đảm bảo nguyên tắc cân bằng lợi ích của các bên.
Mục đích ban hành quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT không nằm ngoài việc hướng tới bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ thể quyền SHTT. Tuy nhiên, đây không phải là mục đích duy nhất và tuyệt đối. Trong bối cảnh thực tế ở Việt Nam, các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ lớn, tiềm lực kinh tế và nhận thức, hiểu biết pháp luật SHTT còn có những điểm hạn chế, do đó, đầu tư cho SHTT chưa tương xứng với yêu cầu. Nhiều người tiêu dùng chưa nhận thức cũng như quan tâm đến bảo vệ, thực thi cũng như tôn trọng quyền SHTT của người khác. [81, tr.124]
Có thể bạn quan tâm!
- Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
- Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng các quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tiền Từ 500.000.000 Đồng Đến 1.000.000.000 Đồng Hoặc Phạt Tù Từ 01 Năm Đến 05 Năm:
- Bộ Công An. 2016. Chiến Lược Quốc Gia Phòng Chống Tội Phạm Giai Đoạn 2016
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
Phát triển kinh tế không phải chỉ cần phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp lớn có uy tín vào hoạt động kinh tế cũng rất quan trọng. Cùng với đó là sự mở rộng thị trường kinh doanh, thương mại ra khu vực, thế giới, tìm kiếm những cơ hội mới với sự phát triển nhanh và mạnh hơn. Vì vậy, việc hợp tác quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại tự do là điều cần thiết. Quy chuẩn pháp lý quốc tế hiện đại về SHTT tập trung thu hút được nhiều sự quan tâm. Tính ưu việt của các quy tắc bảo hộ, bảo vệ quan hệ SHTT nhằm hạn chế các rủi ro là điều kiện cần để các nhà đầu tư quyết định tiến vào một quốc gia nào đó hay không.
Bởi lẽ đó, căn cứ vào thực tế Việt Nam hiện nay, hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT vừa phải đủ sức răn đe, đấu tranh chống và phòng ngừa các hành vi xâm phạm để bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu quyền, đồng thời cân nhắc đến thực trạng phát triển của các doanh nghiệp, không tạo nên hành lang pháp lý quá chật hẹp cho các doanh nghiệp để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mà vẫn tuân thủ các cam kết quốc tế.
Thứ ba, kế thừa được quy định phù hợp, khắc phục được hạn chế của pháp luật hiện hành trên cơ sở kết hợp với việc chọn lọc, học hỏi kinh nghiệm quốc tế để vận dụng cho phù hợp với Việt Nam.
Để thực hiện điều này, cần nghiên cứu và rà soát nghiêm túc hệ thống pháp luật hiện hành về xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT tìm ra những ưu, nhược
điểm của quy định hiện hành, giữ lại những quy định phù hợp và sửa đổi những quy định không còn phù hợp. Việc học hỏi từ pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trên thế giới cũng rất cần thiết. Những bài học kinh nghiệp này cho phép Việt Nam học hỏi, rút ngắn được thời gian thử nghiệm thực tế; qua đó, lựa chọn được phương án hoàn thiện phù hợp nhất. Điều này còn có ý nghĩa là sự tiệm cận lại gần nhau giữa các quốc gia trong việc tìm kiếm tiêu chuẩn pháp lý chung, tiếng nói chung trong quan hệ hợp tác song phương, đa phương.
Thứ tư, nội dung, kỹ thuật lập pháp phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi.
Tính thống nhất bảo đảm không có sự chồng chéo, mâu thuẫn quy định pháp luật trong cùng ngành luật và giữa các ngành luật với nhau. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết việc quy định các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm SHTT phải đủ để phân biệt với các vi phạm về SHTT được các ngành luật khác (như luật dân sự, luật hành chính, luật kinh tế) quy định; đồng thời đủ để phân biệt giữa tội này với tội khác được quy định trong cùng BLHS.
Tính đồng bộ đòi hỏi việc ban hành các quy định pháp luật phải đầy đủ. Trường hợp cần có sự cụ thể, chi tiết, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng cần được ban hành kịp thời để thực thi ngay khi quy định đó của hiệu lực. Điều này ảnh hưởng lớn đến tính khả thi và hiệu quả của việc áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xử lý các tội xâm phạm SHTT. [81, tr. 122 – 123]
Tính khả thi đòi hỏi quy định pháp luật phải thực sự giải quyết được những quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh thuộc ngành luật nhất định. Nội dung và hình thức ban hành đều dễ dàng có thể áp dụng; không lỗi thời nhưng cũng không quá xa vời thực tế.
Để thực hiện những yêu cầu nói trên không chỉ đòi hỏi việc rà soát, đánh giá một cách thường xuyên các quy định pháp luật hình sự nói riêng, pháp luật có hoặc liên quan đến SHTT mà còn cần đánh giá một cách toàn diện, kịp thời tình hình tội phạm cũng như hiệu quả áp dụng pháp luật xử lý các tội xâm phạm SHTT. Qua đó định hướng điều chỉnh quy phạm pháp luật theo kịp với sự thay đổi của thực tiễn.
4.2.2. Các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Các giải pháp được luận án đưa ra không chỉ dựa trên những vướng mắc, hạn chế trong áp dụng pháp luật hình sự (bởi đây chỉ là một trong số các nguyên nhân
cần thiết của việc hoàn thiện quy định pháp luật nói chung) mà còn dựa trên lý luận đúng đắn, mô hình quy định pháp luật với nội dung và kỹ thuật lập pháp hợp lý, bảo đảm các chuẩn mực pháp lý trong nước và quốc tế (mà Việt Nam có tham gia ký kết). Vì vậy, các giải pháp với những kiến nghị cụ thể sau đây là sự tổng hợp từ nghiên cứu của cả ba chương 2, chương 3 và phần thứ nhất của chương 4, cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự về các tội xâm phạm
SHTT.
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT có vai trò hết
sức to lớn đối với việc định hướng cho xã hội cũng như các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như đảm bảo hiệu quả áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT.
Hiện nay, các văn kiện chính trị khẳng định khá rõ mục tiêu “hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ”. Thiết nghĩ rằng, cần phải có một chiến lược quốc gia về phòng chống các tội xâm phạm SHTT cho giai đoạn tới; hoặc có thể rộng hơn là chiến lược quốc gia về phòng chống các vi phạm trong lĩnh vực SHTT nói chung nhưng có sự chú trọng đến các tội xâm phạm SHTT; hoặc ít nhất cần có một đề án độc lập về các tội xâm phạm SHTT trong Chiến lược quốc gia
phòng chống tội phạm nói chung46. Cần nhận định rằng nội dung của chính sách
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT không chỉ thể hiện trong các văn bản mà trong chính những hoạt động của các cơ quan chức năng. Đối với những nội dung thể hiện trong các văn bản thì chiến lược cũng không phải là phương tiện duy nhất truyền tải nội dung này. Tuy nhiên, nếu xây dựng được được một chiến lược như vậy, đó sẽ là căn cứ thiết thực, trực tiếp và chính thống cho các hoạt động thể chế hóa, hiện thực hóa chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT vào trong đời sống xã hội.
Việc xây dựng nội dung của chiến lược cần thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước: phòng, chống tội xâm phạm SHTT cần phải thường xuyên, liên tục và lâu dài góp phần bảo vệ lợi ích của chủ thể sáng tạo trong sự cân bằng với thúc đẩy kinh tế
46 Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến 2030 với 15 đề án chiến lược. Tuy nhiên, không có đề án nào về Phòng, chống các tội xâm phạm SHTT độc lập (chỉ có đề án 8 có tính chất liên quan là Phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả tại các địa bàn, lĩnh vực trọng điểm). Bên cạnh đó, Chương trình 168 (Chương trình phối hợp hành động phòng chống xâm phạm quyền SHTT) vẫn đang tiếp tục giai đoạn III; tuy nhiên, nội dung trọng tâm đặt vào hoạt động phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc phòng chống xâm phạm quyền SHTT nói chung chứ không riêng về các tội xâm phạm SHTT.
phát triển, duy trì trật tự xã hội và hợp tác quốc tế trên cơ sở đảm bảo phù hợp với Đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật nói chung của Nhà nước.
Những nội dung cụ thể cần phải xác định trong chiến lược đó là:
- Những luận điểm chung và nguyên tắc của luật hình sự, khả năng sử dụng luật hình sự để chống và phòng ngừa các tội xâm phạm SHTT (đảm bảo tính nhân đạo; tính khoa học; tính hệ thống, nhất quán; tính hướng đích và dự báo; tính khả thi)
- Các tiêu chí để coi một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội xâm phạm SHTT; Các chế tài hình sự để quy định và áp dụng đối với các chủ thể chịu TNHS.
- Các định hướng trong hoạt động của cơ quan xây dựng pháp luật cũng như cơ quan áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.
- Các định hướng trong những hoạt động khác như hoạt động quản lý Nhà nước về SHTT; hoạt động giáo dục ý thức pháp luật về SHTT.
Những nội dung chính sách pháp luật hình sự về các tội xam phạm SHTT thể hiện được các định hướng nhân đạo hóa, phân hóa, hiện đại hóa và quốc tế hóa.
Trong bối cảnh hiện nay, những nội dung của chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT cần phân hóa mạnh mẽ hơn trước sự biến đổi đa dạng của khoa học công nghệ; đồng thời cũng phải nâng cao tính thống nhất hóa chính sách hình sự ở phạm vi toàn cầu, mà biểu hiện cụ thể là tăng cường sự tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật quốc tế gắn với điều kiện đặc trưng của nước ta.
Thứ hai, xác định cơ cấu của các tội xâm phạm SHTT trong BLHS.
Các tội xâm phạm SHTT hiện nay được quy định trong Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Trước đó, đã có thời kỳ, một số tội xâm phạm SHTT được quy định trong Chương các tội xâm phạm quyền tự do, quyền dân chủ của công dân (Tội xâm phạm quyền tác giả - Điều 131 BLHS năm 1999; sau khi BLHS năm 1999 được sửa đổi năm 2009, Tội này đã được chuyển sang Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế). Xét về tính chất, quan hệ SHTT vừa có yếu tố của quan hệ nhân thân, vừa có yếu tố của quan hệ tài sản giữa chủ thể quyền với tài sản trí tuệ của mình; trong đó, quyền nhân thân là tiền đề của quyền tài sản, giữa hai quyền này có mối quan hệ mật thiết với nhau [101, tr. 11 - 12]. Vì vậy, cần phải đề cập quyền của chủ thể sáng tạo đối với tài sản trí tuệ do mình tạo nên là nội dung trước hết khi xác định khách thể của các tội xâm phạm SHTT. Việc cơ cấu nhóm tội
này vào một Chương nào trong BLHS hiện hành cũng mới chỉ có thể phù hợp được một phần với bản chất của quan hệ SHTT. Tuy nhiên, nếu cơ cấu thành một chương riêng như pháp luật một số quốc gia nhưng hiện này với số lượng Điều luật quá ít cũng cần phải cân nhắc. Từ góc độ lý luận và thực tiễn, hành vi xâm phạm SHTT bị xử lý hình sự hầu hết có mục đích tìm kiếm lợi nhuận kinh tế và hệ quả tiêu cực của hành vi xâm phạm để lại cho sự phát triển nền kinh tế cũng không nhỏ. Do đó, tác giả cho rằng có thể giữ cơ cấu các tội xâm phạm SHTT trong Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế như hiện nay; song, nên tách thành một mục độc lập trong tương lai.
Thứ ba, tội phạm hóa, phi tội phạm hóa, hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi xâm phạm SHTT.
*Một là, tội phạm hóa hành vi “truyền đạt” một cách trái phép đến công chúng các bản sao tác phẩm, bản sao bản ghi âm, bản sao bản ghi hình vào CTTP tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Thực trạng xâm phạm SHTT và nguyên nhân của những vướng mắc trong áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm SHTT những năm qua tại Việt Nam cho thấy cần tội phạm hóa hành vi này. Việc tội phạm hóa hành vi này tạo nên căn cứ pháp lý trực tiếp để xử lý những hành vi xâm phạm điển hình gần đây như livestream phim chiếu rạp. Đây cũng là một trong các yêu cầu nội luật hóa từ CPTPP đối với quốc gia thành viên.
*Hai là, tội phạm hóa một số hành vi khác như hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh; hành vi phân phối, nhập khẩu các nhãn mác, bao gói xâm phạm nhãn hiệu; phi tội phạm hóa hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý. Kiến nghị này xuất phát từ việc thực thi cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết (từ CPTPP). Mặt khác, từ các kết quả nghiên cứu trước, tác giả nhận thấy:
- Tồn tại một bộ phận sản xuất sẵn các nhãn mác của các nhãn hiệu nổi tiếng, buôn bán các loại nhãn mác này ngay tại các khu chợ; coi đó như một loại hàng hóa được làm ra để buôn bán cho những người sản xuất hàng giả hoặc có nhu cầu mua về tự sử dụng lên các đồ dùng của mình. Những chủ thể này sẽ bị coi là đồng phạm về các tội phạm hàng giả hoặc tội xâm phạm quyền SHCN nếu như chứng minh được việc cung cấp các nhãn mác, bao gói này là một khâu của quá trình sản xuất ra hàng hóa giả mạo trong vụ án đó. Những trường hợp chưa hoặc không có đối tượng mua nhãn mác, bao gói này về sản xuất thì không có chế tài hình sự để xử lý mà chỉ có thể phạt vi phạm hành chính.
- Với tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay và tầm nhìn trong tương lai, việc các doanh nghiệp phát triển lên mức độ cao, xuất hiện những doanh nghiệp lớn với khả năng sáng tạo đột phá, việc bảo vệ các bí mật kinh doanh trở nên vô cùng cần thiết bởi giá trị và vai trò quan trọng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Không chỉ vậy, bí mật kinh doanh còn được điều chỉnh bởi quy định pháp luật cạnh tranh. Bảo vệ bí mật thương mại không chỉ bảo vệ quyền SHTT của người sáng tạo mà còn thực tế đang kiến tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong phát triển kinh tế. Nhận thức và có những vụ việc thực tế đã xảy ra, các quốc gia đặc biệt là các quốc gia phát triển đã quy định vấn đề TNHS đối với hành vi xâm phạm bí mật thương mại như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp… Mặc dù ở Việt Nam hiện nay tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chiếm phần lớn nhưng các vụ gián điệp kinh tế, mua chuộc nhân viên, phân tích ngược… vẫn diễn ra hằng năm khiến nhiều doanh nghiệp lúng túng trong cách thức giải quyết, điển hình như vụ Công ty CP Thực phẩm Tân Tân bị đối thủ cạnh tranh thiết kế ngược sản phẩm và tạo sản phẩm tương tự cùng những bổ sung cũng như việc PR hiệu quả hơn khiến Công ty Tân Tân mất hẳn thị phần trên sản phẩm này [58]. Có thể mức độ phổ biến của hành vi này ít hơn so với những vi phạm nhãn hiệu, vi phạm bản quyền sách/phim/nhạc… nhưng ngược lại, một khi đã hành vi xâm phạm xảy ra những thiệt hại cho doanh nghiệp có thể vô cùng lớn; trong trường hợp bí mật đó là chìa khóa sống còn để tạo nên sản phẩm và lợi nhuận cho doanh nghiệp thì việc xâm phạm đó còn có thể dẫn doanh nghiệp chân chính đến bước phá sản.
- Bỏ quy định tội phạm đối với hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý xuất phát từ thực tế các hành vi xâm phạm chỉ dẫn địa lý hầu như không xảy ra trong quá trình xét xử tội xâm phạm quyền SHCN; việc loại bỏ hành vi này cũng vẫn đảm bảo chuẩn mực pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Nếu các hành vi nêu trên được tội phạm hóa, Điều 226 BLHS năm 2015 cần được đổi tên thành Tội xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Các hành vi xâm phạm liên quan đến nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam sẽ được quy định chung trong một tội danh này. Đối với việc tội phạm hóa hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, cần phải phân tách thành một tội độc lập – “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh” để phù hợp với tính chất của đối tượng này.
Ngoài đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm và dự kiến được hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đó, phù hợp với yêu cầu của chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, ký kết, việc mô tả các dấu hiệu của CTTP và hình phạt đối với những tội mới dự kiến được bổ sung cần lưu ý:
- Về nội dung phải phù hợp với văn bản pháp luật chuyên ngành SHTT về thuật ngữ, về các hành vi được coi là xâm phạm.
- Về cấu trúc cần cân nhắc đến cách quy định của các tội xâm phạm SHTT đã có nhằm bảo đảm tính thống nhất trong kỹ thuật lập pháp hình sự.
- Về phân định lĩnh vực xử lý: cần rà soát, đối chiếu với pháp luật xử lý vi phạm SHTT như pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi xâm phạm để bảo đảm tính đồng bộ và không chồng chéo trong quy định và xử lý.
Ví dụ: tội phạm hóa hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh, cần phải lựa chọn từ các hành vi được quy định là xâm phạm bí mật kinh doanh tại Điều 127 Luật SHTT; kết cấu Điều luật quy định tội này nên có sự tương đồng nhất định với cấu trúc của các tội đã được quy định như tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan…; phải không trùng lặp với phạm vi xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh theo pháp luật hiện hành là Nghị định số 75/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 26 tháng 9 năm 2021.
*Ba là, bổ sung dấu hiệu định khung hình phạt “phạm tội trên môi trường internet trong các tội xâm phạm SHTT” và “qua biên giới Việt Nam” nhằm đảm bảo phù hợp với thực tiễn, đồng bộ với các quy định khác và bảo đảm nguyên tắc phân hóa TNHS.
- Đối với dấu hiệu “phạm tội trên môi trường internet”: Môi trường internet ngày càng phổ biến và thông dụng hơn nhiều. Với đặc tính đại chung của môi trường này, việc thực hiện tội xâm phạm SHTT trên internet trở nên rất đơn giản và dễ dàng. Chỉ với một lần nhấp chuột, các bản sao vi phạm bản quyền có thể được tạo ra và phổ biến một cách rất nhanh chóng. Để ngăn chặn và xóa bỏ hết các bản sao vi phạm khi đã được đăng tải rộng rãi không hề đơn giản. Do đó, việc thực hiện hành vi xâm phạm trên internet nguy hiểm hơn hẳn so với trường hợp không sử dụng cộng cụ này.
- Đối với dấu hiệu “qua biên giới Việt Nam”: Tính chất xuyên quốc gia của các hành vi xâm phạm SHTT cũng là một thực tế đáng lo ngại, đặc biệt là khi các