Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam - 2


- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống khủng bố ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội phạm khủng bố theo luật hình sự Việt Nam.

Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (năm 2009) về tội phạm khủng bố.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong các vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội khủng bố theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Thời gian nghiên cứu của luận văn là từ năm 2000 đến 2014. Trong đó khảo sát thực tiễn về tội phạm khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân theo Điều 84 Bộ luật hình sự từ năm 2000 đến 2014; còn tội khủng bố Điều 230a và tội tài trợ cho khủng bố Điều 230b sẽ khảo sát từ ngày 1/1/2010 đến năm 2014.

5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và khủng bố nói riêng, cũng như những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của các nhà khoa học.

Các tội phạm về khủng bố theo luật hình sự Việt Nam - 2


5.2. Các phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: so sánh, phân tích, tổng hợp, đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu báo cáo của Bộ Công an tổng kết tình hình và công tác phòng chống khủng bố.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm khủng bố theo Luật hình sự Việt Nam. Nên kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm khủng bố ở nước ta.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể là:

Chương 1. Những vấn đề chung về tội khủng bố.

Chương 2. Những quy định của Luật hình sự về tội khủng bố và thực tiễn áp dụng.

Chương 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm khủng bố ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM KHỦNG BỐ


1.1. Khái niệm về khủng bố và đặc điểm của khủng bố

1.1.1. Khái niệm về khủng bố

Khủng bố là một trong những loại hành vi đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người và đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, trật tự của xã hội. Khủng bố là một hiện tượng xã hội phức tạp, mang tính tiêu cực, đã và đang trở thành một trong những vấn đề được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau để tìm ra các biện pháp đấu tranh có hiệu quả.

Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu thì thuật ngữ “khủng bố” được sử dụng đầu tiên vào năm 1795 có liên quan trực tiếp đến thời kỳ khủng bố ở nước Pháp giai đoạn 1793 - 1794. Khi đó, chính quyền cách mạng Pháp đã thiết lập một chế độ độc tài làm nhiều người bị tòa án cách mạng kết án tử hình; đồng thời tiến hành các biện pháp kinh tế hà khắc. Những người Giacôbanh lãnh đạo Chính phủ Pháp lúc bấy giờ, đồng thời cũng là những người cách mạng. Vì vậy, “sự khủng bố” đơn thuần được dùng để chỉ hoạt động bạo lực cách mạng nói chung [23].

Thuật ngữ “kẻ khủng bố” được sử dụng lần đầu tiên theo nghĩa người chống lại chính phủ vào năm 1866 ở Ailen và năm 1883 ở Nga. Khái niệm này được dùng để chỉ những kẻ chống chính quyền với triết lý và lý tưởng vô chính phủ, phủ nhận nhà nước, các đạo luật do nhà nước ban hành và tài sản của công dân [23].

Ở Việt Nam, thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện trong tiếng Việt vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX gắn với chế độ Pháp thuộc và Mỹ

- Ngụy. Lúc bấy giờ, thuật ngữ “khủng bố cách mạng” được dùng để chỉ các


cuộc đàn áp và càn quét của chính quyền thực dân Pháp, đế quốc Mỹ nhằm mục đích đe dọa nhân dân ta và gây hoảng sợ trong dân chúng.

Mặc dù thuật ngữ “khủng bố” xuất hiện từ khá lâu trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế nói chung và các quốc gia nói riêng, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố; đồng thời chưa có sự thống nhất quan điểm của các quốc gia về khủng bố. Ngay cả trong các điều ước quốc tế về chống khủng bố, Liên hợp quốc cũng chỉ có thể liệt kê các hành vi bị coi là khủng bố ở mỗi văn bản pháp luật quốc tế cụ thể. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy mới thống nhất được nhận thức về khủng bố và qua đó mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này. Chính vì vậy khi nghiên cứu để hình thành khái niệm khủng bố cần tham khảo những quan điểm của các quốc gia, và cộng đồng quốc tế về vấn đề này.

1.1.1.1. Khái niệm khủng bố trong các điều ước quốc tế

Khủng bố và đấu tranh chống khủng bố là một trong những vấn đề được các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới quan tâm và được bàn nhiều trong các chương trình nghị sự, cuộc họp mang tính quốc tế. Bên cạnh việc đi tìm những giải pháp đấu tranh chống khủng bố có hiệu quả, trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế đã đưa ra những khái niệm về khủng bố.

Hiện nay, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên (Tổ chức Hàng không dân dụng ICAO, Tổ chức Hàng hải quốc tế IMO, Tổ chức Năng lượng nguyên tử IAEA…) có hơn mười điều ước quốc tế đa phương về chống khủng bố đã được thông qua. Công ước chung về chống khủng bố quốc tế mặc dù được tiến hành xây dựng từ năm 1996 đến nay vẫn đang nằm dưới dạng dự thảo vì còn nhiều ý kiến bất đồng xung quanh vấn đề định nghĩa khủng bố. Ở cấp độ khu vực cũng có 8 điều ước quốc tế được kí


kết. Ngoài ra còn rất nhiều các hiệp định quốc tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố [22].

Theo Công ước 25 nước ký kết ở Geneve (Thụy Sĩ) ngày 16/11/1937, các hành động khủng bố được xác định chung là những việc làm phạm tội ác nhằm chống lại một nhà nước mà mục đích hoặc bản chất là gây ra sự khủng khiếp đối với các nhóm người hay đối với dân chúng [22].

Theo Công ước quốc tế về chống khủng bố do Ấn Độ soạn thảo đưa ra thảo luận tại Đại hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lần thứ 56 xác định khủng bố là các hành vi được thực hiện nhằm mục đích đe dọa một nhóm dân cư, buộc một chính phủ hay tổ chức quốc tế làm hay không làm bất cứ điều gì mà gây ra hậu quả làm chết người hay thương tích nặng cho bất kỳ ai hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến một nhà nước hoặc hoạt động bình thường của một chính phủ, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống liên lạc hay cơ sở hạ tầng [22].

Trong Công ước của Hội nghị các quốc gia Hồi giáo đã đưa ra định nghĩa khủng bố là bất kỳ hành động bạo lực nào, hay sự đe dọa sử dụng bạo lực được tiến hành kế hoạch phạm tội bởi một cá nhân hay một tập thể nhằm khủng bố người dân hay đe dọa làm hại họ, hoặc gây nguy hiểm đến tính mạng, danh dự của người dân, đến tài sản của cá nhân hay tập thể [22].

Nhóm hoạch định chính sách của Liên hợp quốc về khủng bố đã đưa ra khái niệm khá chung về khủng bố. Đó là việc thực hiện hoặc có ý đồ thực hiện hành vi xâm phạm các nguyên tắc pháp luật, trật tự, quyền con người và nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế vốn là nền tảng tạo lập nên thế giới [22].


Hiện nay, Liên hợp quốc đã thông qua 18 điều ước quốc tế về chống khủng bố. Ngoài ra còn rất nhiều điều ước quốc tế khu vực, hiệp định quốc tế song phương và các nghị quyết của Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. Mặc dù, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố tương đối lớn, tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng, toàn diện về khủng bố. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc đưa ra định nghĩa chung về khủng bố là cấp thiết vì có như vậy mới nâng cao được hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm này.

Trong 18 điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống khủng bố hiện nay chỉ có 3 công ước trực tiếp nhắc đến khái niệm "khủng bố” ngay tại tiêu đề, đó là: Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom; Công ước New York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố; Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân.

Trong ba công ước quốc tế nêu trên, Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo Công ước này thì khủng bố là: i) "Bất kì hành vi nào cấu thành một tội phạm trong phạm vi và được định nghĩa tại một trong số các điều ước về đấu tranh chống khủng bố còn lại (được quy định tại phụ lục)” hoặc ii) "Bất kì hành vi nào khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến thân thể thường dân, hoặc bất kì người nào khác không tham gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kì hành vi nào” (Điều 2). Tuy nhiên, khó có thể coi quy định nêu ra tại Điều 2 Công ước New York năm 1999 là định nghĩa khủng bố hoàn chỉnh bởi: thứ nhất, đây là định nghĩa gián


tiếp được đưa ra thông qua định nghĩa khác; thứ hai, khoản 1 Điều này không nêu được dấu hiệu cấu thành tội khủng bố mà dẫn chiếu đến một số tội phạm được quy định tại các công ước khác cho nên chỉ thuần tuý mang tính chất liệt kê; thứ ba, khoản 2 có nêu được một số dấu hiệu của tội khủng bố (về hành vi, khách thể, mục đích…) nhưng cũng chỉ đề cập thêm được các hành vi xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người.

Trong khi đó, Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom và Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn các hành vi khủng bố hạt nhân chỉ đưa ra định nghĩa về từng loại hành vi khủng bố cụ thể, ví dụ khủng bố bằng bom là việc: "Ném, đặt làm nổ hoặc kích nổ một cách bất hợp pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào, hoặc chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của nhà nước hoặc Chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2 Công ước New York năm 1997 về việc trừng trị khủng bố bằng bom); theo Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố hạt nhân thì "một người bị coi là phạm tội khủng bố hạt nhân nếu người đó, một cách có chủ định và bằng con đường bất hợp pháp sở hữu nguyên liệu phóng xạ, chế tạo hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích gây thương vong lớn hay nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng nguyên liệu hay thiết bị phóng xạ, sử dụng hoặc phá hoại cơ sở hạt nhân để tạo ra sự rò rỉ phóng xạ gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường để ép buộc thể nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay quốc gia phải thực hiện hay không thực hiện hành động nào đó” (Điều 2 Công ước).

Ngoại trừ 3 Công ước nêu trên, các điều ước quốc tế về chống khủng bố mà Liên hợp quốc đã thông qua không nhắc đến khái niệm khủng bố một cách trực tiếp ở tiêu đề mà chỉ quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi như biểu hiện của khủng bố quốc tế. Ví dụ tại phần


mở đầu, Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin ghi nhận: "Xét rằng việc bắt cóc con tin là một tội phạm gây lo ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế...; nhận thấy rõ sự cấp thiết phải phát triển hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong việc đưa ra các sáng kiến và sử dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn, truy tố và trừng trị tất cả các hành vi bắt con tin như là những biểu hiện của khủng bố quốc tế”; hay như Công ước Montreal năm 1991 về việc đánh dấu chất nổ dẻo để nhận biết tại phần mở đầu có quy định: "Bày tỏ mối lo ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng bố nhằm phá hoại tàu bay, các phương tiện giao thông và các mục tiêu khác; lo ngại rằng các vật nổ dẻo vẫn được sử dụng cho các hành vi khủng bố như vậy; xét rằng việc đánh dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp đó”...

Không chỉ các công ước quốc tế mà các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp phòng, chống khủng bố cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể nào về khủng bố. Ngay cả Nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban chống khủng bố thuộc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi "các quốc gia hợp tác khẩn thiết nhằm phòng và trấn áp các hành động khủng bố, thông qua sự tăng cường hợp tác và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về khủng bố.

Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực cũng không đưa ra được định nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống khủng bố lại dẫn ra những hành vi được quy định tại các công ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Công ước của châu Âu về chống khủng bố năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hoá, đó là các hành vi được nêu trong Công ước La Haye năm 1970 về trừng trị việc chiếm giữ

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/11/2023