Khái Niệm Và Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Các Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Quản Lý Và Sử Dụng Đất Đai Trong Luật Hình Sự

quả thực sự trong thực tiễn; mọi công dân không phân biệt địa vị xã hội, dân tộc, tôn giáo, giới tính, tuổi tác… đều bình đẳng trước pháp luật; được pháp luật bảo đảm, bảo vệ các quyền của công dân. Ngược lại, pháp luật đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm chỉnh của các chủ thể trong xã hội, khẳng định tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật, mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành và phải xử sự phù hợp với pháp luật.

Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những điều kiện cơ bản để "ổn định xã hội, góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển và tiến bộ xã hội, làm tiền đề cho sự nghiệp đổi mới đạt những kết quả vững chắc, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân…" [18, tr. 224-225]. Cùng với đó, một nhiệm vụ cũng vô cùng quan trọng, đó là phải tổ chức được mọi tầng lớp nhân dân, cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, xã hội, đoàn thể tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về đất đai, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm đều bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan - sai người vô tội.

Đóng vai trò là một công cụ pháp lý quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, phải kể đến Luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống pháp luật của Nhà nước, có chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự xã hội; quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, TNHS, hình phạt và các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Song song với việc bảo vệ an ninh quốc gia, Luật hình sự còn bảo vệ các lợi ích khác của xã hội, đó là chế độ kinh tế, nền văn hóa, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… nhằm giữ vững pháp chế, kỷ cương và bảo đảm trật tự pháp luật XHCN. Trong đó,


17

nhóm khách thể loại - các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế được quy định và bảo vệ tại Chương XVI của Bộ luật hình sự (BLHS), còn trật tự quản lý đất đai là các quan hệ xã hội (khách thể) trực tiếp nằm trong số đó.

Trật tự quản lý kinh tế là các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các lĩnh vực bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nền kinh tế đó phải là "nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế" được Nhà nước thực hiện bằng "chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [47, Điều 15].

Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm "trật tự quản lý kinh tế" có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới hạn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và đấu tranh phòng, chống các tội phạm trong lĩnh vực đó.

Trên cơ sở khái niệm "trật tự quản lý kinh tế", chúng ta có thể đưa ra cách hiểu về "trật tự quản lý đất đai", đó là sự quản lý của Nhà nước về mọi mặt đối với đất đai bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, nhằm xác lập một trật tự kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, bền vững, có tổ chức, đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác các lợi ích từ đất, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai, hướng tới bảo vệ chế độ "đất đai… thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17], do Nhà nước đại diện làm chủ sở hữu và “thống nhất quản lý" [46, Điều 18].

Là quan hệ xã hội cụ thể nằm trong nhóm quan hệ về "trật tự quản lý kinh tế" được điều chỉnh và bảo vệ bởi những quy phạm pháp luật nhất định của Nhà nước, "trật tự quản lý đất đai" được coi là điều kiện, cơ sở để Nhà nước quản lý vững chắc, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên vô cùng quý giá. Đây là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng của

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

mỗi quốc gia, bởi nó đóng vai trò làm tiền đề để hình thành một nền kinh tế quan trọng - nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm, tạo môi trường sống cho dân cư, đồng thời còn đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đô thị và nông thôn theo đúng quy hoạch và pháp luật. Cho nên, bằng cách này hay cách khác, dưới bất kỳ hình thức nào, việc đảm bảo sự ổn định, kỷ cương, tăng cường pháp chế trong quản lý và sử dụng đất đai không những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến lượt mình, Nhà nước đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật và các quy tắc XHCN. Cho nên, dưới góc độ pháp luật, tất cả các hành vi xâm phạm "trật tự quản lý đất đai" đều gây nên những thiệt hại nhất định cho Nhà nước, tổ chức, công dân và gây mất ổn định trật tự xã hội. Do đó cần thiết phải bị xử lý. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ kỷ luật, xử phạt hành chính đến xử lý hình sự.

Có thể nói, ngay từ khi giành được chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ nền kinh tế của đất nước nói chung, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng không chỉ trên phương diện ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan, mà còn có những biện pháp thiết thực để cụ thể hóa và đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Từ Hiến pháp năm 1959 quy định: "đất hoang… là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân" [44 , Điều 12], Hiến pháp 1980: "Đất đai… là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn dân" [45, Điều 19] và "Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm" [45, Điều 20]; đến Hiến pháp 1992 thì Nhà nước ta khẳng định nhất quán quan điểm: "đất đai… là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17], "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả… Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm

Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 3

bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật" [ 46, Điều 18].

Để bảo vệ "trật tự quản lý đất đai" với tư cách là khách thể quan trọng của Luật hình sự, ngay từ lần pháp điển hóa BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1985, đã được quy định tại Điều 180 (thuộc Chương XIII- Các tội phạm về kinh tế). Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật và nhận thức dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: việc xây dựng tên gọi của điều luật (Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và mô tả các khách thể được ghi trong điều luật còn chung chung, chưa cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, chính sách hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối nhẹ, không có sự phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt (người có chức vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó không đủ sức răn đe, phòng ngừa chung, thậm chí còn tạo kẽ hở cho một số cán bộ tha hóa, biến chất về đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan tố tụng hình sự lợi dụng để bao che, làm trái. Nhằm khắc phục những bất cập đó, trong lần pháp điển hóa BLHS năm 1999, nhà làm luật đã sửa lại tên, tách phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội tại Điều 180 BLHS 1985 thành hai nhóm được quy định tại hai điều luật riêng biệt với tên gọi khác nhau: tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều

174) và tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173). Sự thay đổi này của BLHS 1999 đã khắc phục được sự thiếu chính xác về học thuật khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các tội phạm về trật tự quản lý đất đai của Nhà nước; đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, tương xứng với tính chất, hậu quả của tội phạm đã xảy ra, góp phần từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường pháp chế XHCN ở Việt Nam.

1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI TRONG LUẬT HÌNH SỰ

1.2.1. Khái niệm các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng

đất đai

Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý hình sự, tội phạm là một hiện

tượng tiêu cực nhất trong xã hội, đồng thời là "một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng" [5, tr.287]. Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng chế tài (hình phạt) đối với người đã thực hiện hành vi đó. Tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người.

Tội phạm tồn tại và phát triển cùng với lịch sử tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Đấu tranh phòng, chống tội phạm không chỉ đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, mà còn làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện của nó để đưa ra các biện pháp phòng ngừa mang tính xã hội và dựa trên những quy luật tất yếu gắn liền với từng giai đoạn tương ứng của xã hội. Vì thế:

Đổi mới chính sách xã hội chính là một phương hướng quan trọng góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong giai đoạn mới…

Đây là một phương sách vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa hiệu quả, kinh tế và nhân bản. Bản chất của phòng ngừa tội phạm, xét cho cùng là tạo ra một môi trường sống lành mạnh, trong đó mỗi người có điều kiện phát triển tự do, hài hòa với cộng đồng và loại bỏ nhiều nhất các yếu tố làm nảy sinh và phát triển những tiêu cực xã hội [18, tr. 202, 204].

Nghiên cứu BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), các nhà làm luật nước ta đã ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [49, Điều 8].

Theo đó, chế độ kinh tế nói chung, trật tự quản lý đất đai nói riêng là một trong những quan hệ xã hội quan trọng được Luật hình sự bảo vệ.

Tuy nhiên, qua nghiên cứu khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập pháp nói trên, chúng ta nhận thấy các nhà làm luật Việt Nam mới chỉ đề cập (chỉ ra) bốn dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản thuộc nội hàm của thuật ngữ, trong khi đó, dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự thì "tội phạm" phải hội tụ đủ năm dấu hiệu (đặc điểm) bắt buộc, được thể hiện trên ba bình diện, đó là:

- Bình diện khách quan (nội dung): tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1);

- Bình diện pháp lý (hình thức): tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (hành vi đó phải là hành vi xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ) (2);

- Bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS (3), đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (4) thực hiện một cách có lỗi (5).

Như vậy, đối chiếu với định nghĩa được các nhà làm luật nêu tại Điều 8 BLHS, chúng ta thấy trong khái niệm này còn thiếu dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản thứ 4, đó là: tội phạm do người đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong BLHS, cũng như mức cao nhất khung hình phạt của tội đó, tội phạm được chia thành bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác (Khoản 3,4 Điều 8 BLHS).

Quay trở lại việc tìm hiểu về khái niệm tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Chúng ta đều biết: nền tảng của chính sách hình sự trong việc bảo vệ các quan hệ xã hội về quản lý và sử dụng đất đai ở Việt Nam, trước hết, đã được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của Nhà nước ta - Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Qua nhiều lần sửa đổi, thay thế, đến nay Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định: "đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất… đều thuộc sở hữu toàn dân" [46, Điều 17] và "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật" [46, Điều 18]. Chính sách hình sự còn được thể hiện rõ nét bằng việc chính thức ghi nhận loại tội phạm này trong BLHS năm 1985 (Điều 180 - tội Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và gần đây nhất là BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã thể chế hóa thành các tội danh cụ thể tại Điều 174 (tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai) và Điều 173 (tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai), cùng được đặt trong Chương XVI - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Trước khi tìm hiểu khái niệm về tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai, chúng ta cần hiểu tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là gì?

Như đã phân tích ở trên, xuất phát từ khái niệm "trật tự quản lý kinh tế" được hiểu là tổng hợp các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính trên tất cả các lĩnh vực, bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nếu xem xét vấn đề dưới

góc độ khoa học pháp lý về tội phạm, PGS. TS. Dương Tuyết Miên đưa ra định nghĩa: "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế" [66, tr. 79]. Còn theo quan điểm của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí lại cho rằng:

Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân [6, tr. 329].

Như vậy, giữa các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam có những quan điểm chưa thực sự "đồng nhất" với nhau. Song, chúng ta có thể nhận thấy một điểm chung trong các luận điểm của họ đều cho rằng: tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, mà tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai là một trong những tội phạm xâm phạm đến nhóm các quan hệ xã hội đó. Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm này, dưới góc độ khoa học luật hình sự cần có sự nhận thức chính xác và đầy đủ, về bản chất và dấu hiệu pháp lý của tội phạm đó.

Dưới đây, chúng ta cùng tiến hành tìm hiểu khái niệm về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai như sau:

* Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 174).

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí định nghĩa:

Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là việc người có chức vụ, quyền hạn, lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 23/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí