chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm [6, tr. 400].
Theo chúng tôi, định nghĩa này có điểm hợp lý là phù hợp với các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý thì chưa nêu bật được các dấu hiệu thuộc về mặt hình thức, năng lực TNHS và yếu tố lỗi của tội phạm, mà chủ yếu là mô tả hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai phải được xem xét trên cả ba bình diện, tương ứng với việc thể hiện được đầy đủ năm dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của tội phạm như đã phân tích ở trên. Do đó, khái niệm tội phạm này, theo chúng tôi, được hiểu là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về đất đai, do người có chức vụ, quyền hạn cố ý thực hiện, thuộc một trong ba trường hợp: đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, đất có diện tích lớn hoặc có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
* Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173).
Cũng theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, cho rằng: "Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là việc người có hành vi lấn chiếm hoặc chuyển quyền sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng" [6, tr. 397]. Định nghĩa này có ưu điểm là đã chỉ rõ được khách thể trực tiếp mà tội phạm xâm phạm đến, nhưng điểm hạn chế là mới chỉ mô tả được một số hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm và chưa nêu được các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này. Vì vậy, theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm này cần hiểu là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS cố ý thực hiện, gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Từ các khái niệm nêu trên, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của tội phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai và tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai như sau:
Một là, cả hai tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cùng nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được quy định tại Chương XVI - BLHS, do đó đều xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai nói riêng.
Hai là, nếu như tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai là hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, thuộc các trường hợp "đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm", đất có "diện tích lớn", "giá trị lớn" hoặc "gây hậu quả nghiêm trọng"; thì tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm".
Ba là, tội phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai được thực hiện bởi chủ thể đặc biệt. Ngoài các điều kiện của chủ thể thường về năng lực TNHS, tuổi chịu TNHS, chủ thể của tội phạm này còn phải là người có chức vụ, quyền hạn, thẩm quyền trong việc quản lý đất đai. Trong khi đó, ngược lại, ở tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai thì được thực hiện bởi chủ thể thường. Song, có một điểm chung ở cả hai tội này là đều được thực hiện với hình thức lỗi cố ý; người phạm tội biết được hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra nhưng vẫn thực hiện.
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 1
- Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 2
- Khái Niệm Và Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Các Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Quản Lý Và Sử Dụng Đất Đai Trong Luật Hình Sự
- Giai Đoạn Từ Khi Ban Hành Bộ Luật Hình Sự Năm 1985 Đến Trước Khi Ban Hành Bộ Luật Hình Sự Năm 1999
- Tội Vi Phạm Các Quy Định Về Quản Lý Đất Đai
- Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 7
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong luật hình sự
Như đã biết, đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia. Nói đến chủ quyền quốc gia, không thể không đề cập đến lãnh thổ, mà cơ sở pháp lý của nó chính là đất đai. Ở nước ta, ngay từ khi bắt tay vào công cuộc tái thiết đất nước theo Nghị quyết Đại hội VI của Đảng với nhiệm vụ phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì nhu cầu sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân là rất lớn. Cùng với đó, nhiều vấn đề tiêu cực đã nảy sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai, như: việc sử dụng đất không đúng mục đích, vi phạm các quy định về giao đất, thu hồi, cho thuê, chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng, lấn chiếm đất… Trên thực tế, hành vi vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai (đặc biệt tập trung ở những thành phố lớn và khu vực đô thị) trên phạm vi cả nước đã và đang xảy ra ngày một phức tạp, với những thủ đoạn tinh vi, hậu quả của tội phạm gây ra hết sức nặng nề, không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung, mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích kinh tế của các tổ chức, cá nhân. Do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nên việc quy định nó là tội phạm trong luật hình sự để đấu tranh chống và phòng ngừa là thực sự cần thiết. Không những vậy, chế tài đưa ra cũng cần nghiêm khắc mới đáp ứng đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Khi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể, được quy định thành tội phạm và chịu hình phạt trong Luật hình sự thì pháp luật hình sự trở thành công cụ hữu hiệu tác động đến hành vi sai lệch. Đồng thời, tác động đến ý thức của người dân nói chung, tạo ra một giới hạn trong ý thức của họ về việc thực hiện các hành vi đúng đắn theo quy định và cùng tham gia đấu tranh phòng chống những hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, người thực hiện hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai bị coi là tội phạm và phải chịu các chế tài nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự, đó là hình phạt. Đây chính là thái độ của xã hội đối với hành vi đi
ngược lại những chuẩn mực, lợi ích của xã hội. Việc phải chịu hình phạt nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời đảm bảo sự công bằng của xã hội. Qua đó, người phạm tội có điều kiện để cải tạo, sửa chữa trở thành người có ích cho xã hội.
Quy định các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong pháp luật hình sự là cơ sở để Nhà nước thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật sử dụng các công cụ pháp lý đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy, mỗi loại tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, nhưng suy cho cùng, dù là hành vi nào thì chúng đều gây ra những thiệt hại nhất định cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Chúng là những hiện tượng xã hội tiêu cực đòi hỏi chúng ta không ngừng đấu tranh, ngăn chặn và từng bước loại trừ ra khỏi đời sống xã hội.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm về quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách có hệ thống, đồng bộ, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, không ngừng bổ trợ cho nhau để phát huy những mặt tích cực và giảm thiểu những mặt còn hạn chế, bất cập của từng biện pháp. Từ đó, phát huy tốt nhất hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đây không phải là nhiệm vụ của một cá nhân hay cơ quan, tổ chức, mà bao gồm từ hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, đến các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và đặc biệt quan trọng đó là ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm của chính mỗi người dân; kết hợp với việc sử dụng nhiều biện pháp, từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế, trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất.
Nhận thức được yêu cầu đó, BLHS đầu tiên của thời kỳ đổi mới và thống nhất đất nước (năm 1985) đã ra đời, quy định tội phạm vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (Điều 180). Bước đầu tạo lập được cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý nghiêm minh các hành vi xâm hại đến trật tự quản lý đất đai.
Tuy nhiên, do điều luật quy định gộp hai loại hành vi trong một CTTP chung, bao gồm các hành vi vi phạm về quản lý đất đai và các hành vi vi phạm về bảo vệ đất đai. Mặt khác, điều luật cũng chưa điều chỉnh bao quát hết các hành vi phạm tội mới về trật tự quản lý đất đai do mặt trái của nền kinh tế thị trường, nên đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra phải thực hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hành vi, cá thể hóa hình phạt, tiếp tục hoàn thiện cấu thành các tội phạm này, thể hiện quan điểm xử lý của Nhà nước đối với từng loại tội phạm. Hai hành vi này cần thiết được xây dựng thành hai CTTP độc lập tương ứng với hai tội danh khác nhau. Xuất phát từ yêu cầu đó, BLHS năm 1999 đã ra đời thay thế BLHS năm 1985; trật tự quản lý nhà nước về đất đai đã được bảo vệ một cách toàn diện và đầy đủ hơn bởi hai điều luật: Điều 173 (tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai) và Điều 174 (tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai). Việc quy định riêng biệt hai CTTP ở đây là cơ sở để quy định dấu hiệu trong mỗi CTTP phù hợp ở mức cao nhất với đặc điểm và tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi phạm tội và hình phạt tương ứng, đồng thời cho phép tiếp tục phân hóa các CTTP này trong phạm vi từng tội danh. Xem xét, phân tách CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS cũng rất quan trọng góp phần phân hóa TNHS của từng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Chia tách theo từng mức độ như vậy là cơ sở để chúng ta đưa ra hình thức, mức chế tài cho phù hợp. Sự phân hóa TNHS càng triệt để bao nhiêu sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi bấy nhiêu cho công tác cá thể hóa TNHS trong thực tiễn xét xử.
Bởi những đòi hỏi trên, việc quy định các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật hình sự là hết sức đúng đắn và cần thiết, đáp ứng yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn.
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam nói chung, việc ban hành các quy phạm pháp luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai nói riêng, gắn liền với sự phát triển của các chính sách hình sự của đất nước.
Trong những ngày đầu mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đất nước ta đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách bởi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, đặc biệt là nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh. Để ổn định tình hình đất nước, từng bước xây dựng xã hội mới, khôi phục kinh tế và bảo vệ thành quả của cách mạng, ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 47/SL cho phép tạm thời áp dụng một số văn bản của pháp luật cũ không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Như vậy, đặc điểm cơ bản của thời kỳ này là sự tồn tại hai loại văn bản pháp luật hình sự mới và cũ, cấu thành nên hệ thống văn bản pháp luật thể hiện chính sách hình sự có sự phân hóa của Nhà nước ta. Bên cạnh việc ban hành một số văn bản pháp luật hình sự mới, Chính phủ vẫn cho phép tiếp tục áp dụng một số quy định của pháp luật hình sự cũ, nhằm duy trì sự ổn định trật tự xã hội đối với những lĩnh vực mà Nhà nước chưa kịp ban hành văn bản để điều chỉnh, trong đó có cả việc áp dụng pháp luật của đế quốc và phong kiến: ở Bắc Kỳ áp dụng hình luật An Nam, ở Trung Kỳ áp dụng Hoàng Việt hình luật và ở Nam Kỳ áp dụng luật pháp tu chính.
Đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân thời kỳ này: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ" [12, tr. 16]. Nhất quán chủ trương đó, Đảng và Nhà nước đã quyết định ban hành bản Hiến pháp đầu tiên
với các chính sách pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của lịch sử, góp phần bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng đất nước ổn định và phát triển.
Thời kỳ này, để có cơ sở pháp lý cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về kinh tế, Chủ tịch nước đã ban hành một số Sắc lệnh quan trọng như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 về trừng trị tội phá hoại công sản, Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ. Trong các hành vi phạm tội trên có chứa đựng phần nào hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai mà sau này được quy định thành những tội phạm cụ thể.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Thời kỳ này, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành một loạt chính sách pháp luật, trong đó có những quy phạm trừng trị, răn đe hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế; đề ra một số nhiệm vụ trước mắt: hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế quốc dân, giảm bớt khó khăn về đời sống của nhân dân phù hợp với tình hình mới của đất nước, với phương châm: khôi phục kinh tế, khôi phục và phát triển nông nghiệp, khôi phục công nghiệp và thương nghiệp, hướng về dân sinh, phục vụ cho sản xuất của nhân dân, phục vụ cho công cuộc kiến thiết của nước nhà (Nghị quyết kinh tế năm 1955 của Quốc hội).
Căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ mới dựa trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm đấu tranh với bọn phản cách mạng; đồng thời, để trấn áp, trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa, bảo vệ việc khôi phục và phát triển kinh tế, xã hội, cải tạo XHCN, ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 267/SL để thực hiện những nhiệm vụ đó. Sắc lệnh khẳng định:
Sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hoá của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm phục vụ lợi ích của toàn dân. Kẻ nào phá hoại sự nghiệp ấy là làm hại nhân dân. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp
xây dựng kinh tế và văn hoá, nay ban hành sắc lệnh này nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hoá [33, Điều 1].
Sau đó, để bảo đảm pháp chế, bảo vệ chế độ kinh tế nói chung, chính sách pháp luật về đất đai nói riêng, Hiến pháp năm 1959 ra đời quy định: “các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn dân [44, Điều 12]; “Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân" [44, Điều 14]. Không dừng lại ở đó, quan điểm này còn được Đảng, Nhà nước ta tiếp tục khẳng định và ghi nhận một cách toàn diện hơn, bao quát hơn ở Hiến pháp năm 1980, đó là:
Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất… đều thuộc sở hữu toàn dân [45, Điều 19]
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật. Tập thể hoặc cá nhân sử dụng đất đai đều có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước. Đất dành cho nông nghiệp và lâm nghiệp không được dùng vào việc khác, nếu không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép [45, Điều 20].
Đến đây, Nhà nước không còn thừa nhận và "bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất" của nông dân.
Giai đoạn từ năm 1960 đến 1975 là giai đoạn miền Bắc song song tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là hậu phương vững chắc để chi viện cho miền Nam kháng chiến chống đế quốc, đặc biệt là việc tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965). Đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ này, Đảng, Nhà nước ta nhấn mạnh công tác tổ chức và quản lý