Hoàn Thiện Quy Định Của Blhs Việt Nam Về Các Tội Phạm Tham Nhũng

tính nguy hiểm cao trong khi việc xử phạt hành chính đối với các hành vi này tỏ ra không hiệu quả nữa mà đòi hỏi người có hành vi tham nhũng phải bị truy cứu TNHS.

Thứ ba, qua quá trình áp dụng các quy định của BLHS về các tội phạm tham nhũng đã thấy rõ vai trò quan trọng của các quy định này trong xử lý tội phạm tham nhũng. Tuy nhiên, cũng chính từ hoạt động thực tiễn áp dụng các quy định đó cho thấy đã phát sinh một số quy định không phù hợp cần phải được sửa đổi, bổ sung để nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.

3.2. Hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về các tội phạm tham nhũng

3.2.1. Nhận xét

BLHS Việt Nam năm 1999, đã quy định 07 cấu thành tội phạm về tham nhũng, điều đó có thể thấy chủ chương đường lối của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng là rất quan trọng. Việc quy định của BLHS thành một mục riêng các tội phạm về tham nhũng có ý nghĩa chính trị pháp lý quan trọng, BLHS là cơ sở pháp lý cốt lõi nhất trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng; là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng. Các quy định của BLHS cũng là cơ sở để nghiên cứu và hoạchđịnh chính sách chống tham nhũng của Nhà nước trong thời gian tới

3.2.2. Nội dung hoàn thiện

Về cơ bản các quy định của BLHS hiện hành đã tạo cơ sở pháp lý toàn diện và đầy đủ để các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Báo cáo của các Bộ, ngành cũng đánh giá, công tác thi hành BLHS đạt được những kết quả nhất định, các cơ quan tiến hành tố tụng ở các cấp đã triển khai và thực hiện nghiêm túc các quy định của BLHS.

Báo cáo của ngành Tòa án còn khẳng định, hoạt động áp dụng các quy định của BLHS đã thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu

tranh chống tội phạm, qua đó bồi dưỡng mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật; công tác xét xử cũng có nhiều chuyển biến tích cực, bảo đảm về chất lượng và số lượng giải quyết án, đảm bảo công bằng trong xét xử, bản án tuyên được người dân đồng tình ủng hộ.

Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, nhất là trước nhu cầu hội nhập quốc tế, BLHS đã và đang bộc lộ không ít vướng mắc, bất cập đối với các loại tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng. Có thể khẳng định rằng, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp LHS nói riêng để thực hiện tốt các cam kết quốc tế và đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với các loại tội phạm, trong đó có tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực công là một trong những chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Theo tôi, BLHS cần sửa đổi, bổ sung thêm những vấn đề sau:

Thứ nhất, về mặt thuật ngữ, cần bổ sung thêm khái niệm tội phạm về tham nhũng bên cạnh khái niệm tội phạm về chức vụ. Tội phạm tham nhũng là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích vụ lợi.

Các tội phạm tham nhũng trong LHS Việt Nam Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk - 12

Thứ hai, về mặt kỹ thuật lập pháp: cần kết cấu lại chương, bổ sung thêm các điều cho phù hợp hơn. Bổ sung thêm một số tội vào Mục các tội phạm về tham nhũng. Theo quy định của Luật PCTN, ngoài các tội phạm đã được quy định tại Mục A Chương XXI BLHS năm 1999 là các tội phạm về tham nhũng thì còn một số hành vi tham nhũng chưa được quy định là tội phạm hoặc tuy đã quy định là tội phạm nhưng chưa được coi là tội phạm về tham nhũng. Ví dụ như: BLHS năm 1985 có quy định Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 137a). Tuy nhiên, khi xây dựng BLHS năm 1999, nhà làm luật đã nhập Điều 137a với Điều 137

và quy định Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142), theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 Luật PCTN thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi cũng là hành vi tham nhũng. Do đó, cần khôi phục lại tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước. Hành vi dùng tài sản Nhà nước để đưa hối lộ được quy định tại Điều 289 BLHS chỉ là tình tiết định khung hình phạt và Tội đưa hối lộ (Đ289) chỉ là tội phạm khác về chức vụ chứ không phải là tội phạm về tham nhũng, nhưng sau khi Luật PCTN có hiệu lực thì hành vi dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ để được giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương mình, phải được coi là tội phạm về tham nhũng [13]. Bổ sung (tội phạm hóa) vào BLHS một hành vi tham nhũng đã ghi nhận trong Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, được sửa đổi, sửa đổi năm 2007 và năm 2013 (khoản 8 Điều 3) có liên quan đến hành vi đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ, đó là hành vi đưa hối lộ hoặc làm môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương mình vì vụ lợi do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện thành một tội trong Mục A - Các tội phạm về tham nhũng để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay [54, tr.10].

Thứ ba, BLHS năm 1999 chưa quy định TNHS của pháp nhân. Đây sẽ là cản trở cho Việt Nam khi xem xét truy cứu TNHS đối với một số tội phạm tham nhũng, đặc biệt gây khó khăn cho hợp tác quốc tế. Hiện nay, tình trạng xuất hiện ngày càng nhiều hành vi có dấu hiệu tham nhũng do pháp nhân thực hiện, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thực hiện hành vi tham nhũng là hết sức cần thiết, phù hợp với thông lệ quốc tế, yêu cầu của Công ước Chống tham nhũng. Do đó, cần bổ sung quy định TNHS của pháp nhân vào BLHS.

Thứ tư, cần mở rộng chủ thể đối với loại tội phạm tham nhũng đối với khu vực tư. Hiện nay, nước ta hiện nay phát triển kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, có sự quản lý của Nhà nước. Bên cạnh các tập đoàn kinh tế của Nhà nước, các doanh nghiệp có vốn góp của Nhà nước xuất hiện rất nhiều loại hình doanh nghiệp được hình thành, đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, các công ty cổ phần. Trong một số trường hợp, trong các doanh nghiệp, công ty cổ phần, một số người được giữ những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong việc quản lý tiền và tài sản của doanh nghiệp, công ty đã lợi dụng quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản đó. Về bản chất, đây là hành vi tham ô tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu theo quy định của pháp LHS thì những người có hành vi chiếm đoạt tài sản này sẽ bị xử lý về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vì những đối tượng này không phải là người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của PLHS Việt Nam. TNHS đối với người phạm tội khi bị xử lý về những tội này nhẹ hơn rất nhiều so với việc bị xử lý về các tội về tham nhũng. Điều đó dẫn đến việc áp dụng TNHS không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ năm, qua nghiên cứu về các tội phạm tham nhũng chúng ta cần hình sự hóa hành vi tham nhũng và thực thi pháp luật: Cần nghiên cứu bổ sung quy định về trách nhiệm pháp lý hình sự của pháp nhân; nghiên cứu hình sự hóa các hành vi tham nhũng trong khu vực tư; các hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài và công chức của tổ chức quốc tế công; các hành vi làm giàu bất hợp pháp; các hành vi hối lộ tình dục... Nghiên cứu hoàn thiện các quy định bảo vệ người tố cáo, nhân chứng, chuyên gia, nạn nhân...

Thứ sáu, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định về hình phạt đối với các tội phạm về tham nhũng, trong đó có tội về tử hình. Hiện nay, nên nghiên cứu để loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội có liên quan đến tham nhũng. Bởi vì, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, ngăn ngừa tái phạm một cách triệt để, được nhiều nước áp dụng. Những năm gần đây, nhiều nước đã bỏ hình

phạt này, nhiều nước chỉ giữ lại với một số tội đặt biệt. Hình phạt tử hình tuy nghiêm minh nhưng nó là hình phạt tước đi mạng sống, là quyền quan trọng nhất của con người, không cho người phạm tội có cơ hội sửa chữa sai lầm và cải tạo chính bản thân mình. Do đó, việc thu hẹp án tử hình là đòi hỏi cần thiết của việc hoàn thiện hệ thống pháp LHS, gắn với việc bảo đảm các quyền con người, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và đạo lý của dân tộc, xu hướng phát triển tất yếu chung của các quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển. Mặt khác loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm về tham nhũng như thế thể hiện tinh thần nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội. Đối với tội phạm về tham nhũng, suy cho cùng đây cũng là những tội phạm về kinh tế, do đó cần đánh mạnh vào mặt kinh tế. Từ đó, sẽ răn đen đối với người phạm tội, đồng thời tạo điều kiện cho người phạm tội có thể cải tạo, sửa đổi bản thân. Ví dụ như đối với tội Tham ô tài sản, người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thu lợi bất chính với động cơ vụ lợi. Do đó, điều quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng không phải là tước đi sinh mạng của họ mà phải loại bỏ, triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện phạm tội và thu hồi lại tài sản đã tham nhũng. Việc không bị tử hình cũng sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc thu hồi lại tài sản tham nhũng. Thiết nghĩ, đối với loại tội phạm này, hình phạt cao nhất chỉ là chung thân, thêm vào đó người phạm tội phải chịu những hình phạt bổ sung như phạt tiền… điều đó cũng đủ răn đe, trừng trị.

Tóm lại, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, LHS Việt Nam nói riêng về các tội phạm về tham nhũng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay và thực hiện tốt các cam kết quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng, phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, trên tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Trong thời gian tới, bên cạnh việc hoàn thiện những quy định của BLHS về các tội phạm về tham nhũng, cần bổ sung, hoàn thiện những văn bản hướng dẫn áp dụng những quy định của BLHS về nhóm tội phạm này để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, chính xác và hiệu quả hơn.

3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về các tội phạm tham nhũng

3.3.1. Tăng cường năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân

Về phía ngành Tòa án, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn được quan tâm và chỉ đạo sát sao. Ban cán sự đảng, lãnh đạo TANDTC luôn quan tâm chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, đảng viên trong đơn vị. Các cơ quan báo chí tuyên truyền của ngành, như Công thông tin điện tử, Tạp chí Tòa án nhân dân, Báo Công lý thường xuyên đăng tải chủ trương đường lối của Đảng, các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với công tác phòng, chống tham nhũng.

Thường xuyên tổ chức những buổi tập huấn, tọa đàm trao đổi kinh nghiệm xét xử cho các Thẩm phán, trong đó có kinh nghiệm trong việc xét xử những vụ án tham nhũng. Hàng năm, Hội đồng Thẩm phán TANDTC nên có những văn bản tổng kết kinh nghiệm xét xử, tổng kết các vấn đề vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn xét xử các vụ án tham nhũng của Toà án các cấp để các quy định về loại tội phạm này được áp dụng thống nhất ở các Tòa án địa phương.

TANDTC thường xuyên chỉ đạo Tòa án các cấp đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác giải quyết, xét xử các vụ án hình sự; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không đúng quy định của pháp luật; tăng cường việc tranh tụng tại các phiên toà; phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội hoặc bỏ lọt tội phạm; giải quyết dứt điểm các vụ án lớn, trọng điểm; tăng cường công tác xét xử lưu động; đảm bảo việc áp dụng các hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo; khắc phục triệt để tình trạng cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ đặc biệt là tội tham nhũng không đúng quy định của pháp luật; khắc phục tình trạng bản án tuyên không rõ ràng gây khó khăn cho công tác thi hành án; hạn chế việc huỷ, sửa án; ra quyết định thi hành án đúng pháp luật đối với 100% người bị kết án.

Trong công tác xét xử các vụ án về tham nhũng, quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo TANDTC, Tòa án các cấp phải tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với các ngành Công an, VKS và các cơ quan chức năng khác để khẩn trương phát hiện, điều tra, kiên quyết đưa ra truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh các tội phạm về tham nhũng; cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc làm thất thoát số lượng lớn tài sản của Nhà nước. Việc xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo chỉ áp dụng đối với những bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đáng được khoan hồng đặc biệt, đúng với quy định của pháp luật và hướng dẫn của liên ngành tư pháp trung ương và TANDTC. Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/11/2013, hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo, theo hướng quy định chặt chẽ, cụ thể hơn các điều kiện cho hưởng án treo, đặc biệt là đối với các bị cáo phạm tội về tham nhũng, chức vụ.

Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới, kịp thời phát hiện và khắc phục ngay đối với các sai sót về chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án, trong đó có việc cho hưởng án treo không đúng quy định của pháp. Đối với các vụ án về tham nhũng mà có bị cáo được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ thì Tòa án đã xét xử phải gửi bản án về TANDTC để giám đốc kiểm tra nhằm đảm bảo giám sát chặt chẽ công tác xét xử đối với loại tội phạm này. Đối với các trường hợp để các vụ án tham nhũng quá thời hạn xét xử hoặc cho các bị cáo phạm tội tham nhũng được hưởng án treo không đúng quy định của pháp luật, thì sẽ phải kiểm điểm nghiêm túc, xác định rõ trách nhiệm, nếu do lỗi chủ quan của Thẩm phán thì sẽ có biện pháp xử lý nghiêm khắc.

Việc nâng cao kỹ năng xét xử và trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án, viết bản án theo đúng quy định của Luật tố tụng và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần được quan tâm và thực hiện nghiêm túc, đặc biệt là công tác thu thập chứng cứ, định giá, đo vẽ, thẩm định tại chỗ để bản án được tuyên chính xác, đúng pháp luật đảm bảo xử đúng người, đúng tội và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời đảm bảo tính khả thi tạo điều kiện cho công tác thi hành án có hiệu quả.

3.3.2. Tăng cường công tác xét xử nghiêm minh, kịp thời các tội phạm tham nhũng

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí" theo Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5, khoá XI. Huy động sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp đấu tranh phòng, chống tham nhũng; gắn chặt

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 28/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí