Có Hành Vi Phạm Tội Xảy Ra Hay Không, Thời Gian, Địa Điểm Và Những Tình Tiết Khác Của Hành Vi Phạm Tội;

tù”[31].BLHS quy định mức hình phạt tối đa trong trường hợp này là nhằm bảo đảm sự bình đẳng cho mọi công dân trước pháp luật, thực hiện việc phân hoá trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm một tội và trường hợp phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án.

Không giống một số loại hình phạt khác, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, không quy định đối tượng phạm tội nào được áp dụng, loại tội nào được áp dụng, điều kiện áp dụngnhư thế nào mà chỉ quy định về nội dung, thời hạn tối thiểu và thời hạn tối đa của hình phạt tù có thời hạn. Đặc biệt, nhà làm luật vướng phải những khó khăn, hạn chế trong việc quy định chế tài các quy phạm pháp luật phần tội phạm có hình phạt tù có thời hạn vì theo quy định tại Điều 38Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, áp dụng hình phạt tù có thời hạn không có quy định điều kiện chung.Một vấn đề nữa trong hầu hết các quy định của Bộ luật hình sự về tội danh trong phần các tội phạm đều có chế tài là hình phạt tù có thời hạn, dù đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, dù đó có là cố ý phạm tội hay vô ý phạm tội,vấn đề này sẽ gây khó khăn khi Tòa án tuyên án, cá thể hóa hình phạt đối với bị cáo hay rất khó khăn khi phân hoá trách nhiệm hình sự trong quy định các chế tài.

Hay là trong phần các tội phạm cụ thể, thì có nhiều điều luật cụ thể còn quy định nhiều loại hình phạt trong khung hình phạt và mức hình phạt quá dài trong khung hình phạt, dẫn đến các chủ thể thực hiện tố tụng khi xét xử khó áp dụng các loại hình phạt, hoặc đôi khi còn áp dụng mức hình phạt thiếu chính xác.

Phạm vi quy định hình phạt tù có thời hạn vẫn quá rộng. Có những tội, hầu như các mức độ hình phạt đều được quy định trong chế tài (Điều 134 về Tội cố ý gây thương tích; Điều 174 vê tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 188 BLHS về tội buôn lậu..); có nhiều khung hình phạt khoảng cách mức hình phạt tối thiểu và tối đa được quy định còn khá rộng từ 08 đến 10 năm tù (Điều 110 về Tội gián điệp; Điều 111 về Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ; Điều 112 về Tội bạo loạn…) làm ảnh hưởng tính thống nhất trong áp dụng pháp luật.Vì vậy, có thể nói giữa thực tiễn áp dụng hình phạt và quy định của BLHS về hình phạt nói chung, hình phạt tù nói riêng đang có một độ "lệch”nhất định.

Ở nhiều điều luật, sự phân hoá chế tài chưa thật tốt từ góc độ các yếu tố chủ quan của tội phạm.Đối với các tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý thì chế tài quy định là quá nghiêm khắc. Đối với các tội phạm do vô ý, đa số trong các trường hợp này, Tòa án thường quyết định áp dụng hình phạt nhẹ hơn rất nhiều so với quy định của Bộ Luật Hình sự, vấn đề được tác giả nhận thấy qua thực tiễn trong công tác xét xử.

Bên cạnh đó, trong quá trình áp dụng hình phạt, người áp dụng hình phạt chắc chắn sẽ có thể thấy những bất cập giữa Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự trong một số quy định cụ thể còn chưa đầy đủ, hoặc có những quy định không rò ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau mà chưa được sửa đổi, bổ sung, giải thích, hướng dẫn kịp thời, nên dẫn đến có những nhận thức khác nhau và lúng túng trong việc áp dụng hình phạt cho bị cáo.

Theo quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như sau:

Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.

3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh - 9

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”.[30].

Nội dung Điều luật này không quy định về chứng minh tài sản, về khả năng thi hành án của người phạm tội, là không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 50 của Bộ luật Hình sự “ Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội”.[31]. Rò ràng đây là yêu cầu phải chứng minh, có chứng minh

được thì Tòa án mới được áp dụng.Nếu hồ sơ vụ án không thực hiện việc chứng mình này thì quy định của Khoản 2 Điều 50 BLHS rất khó thực hiện.

Hay khó khăn khi áp dụng quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS.Về tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”.Bồi thường thiệt hại, do điều luật không quy định mức độ bồi thường nên có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng bồi thường một phần dù nhỏ vẫn áp dụng tình tiết này; có quan điểm lại cho rằng phải bồi thường đáng kể mới áp dụng tình tiết này; lại có quan điểm cho rằng nếu bị cáo đã bán hết tài sản nhưng cũng chỉ bồi thường được một phần rất nhỏ so với hậu quả xảy ra thì cũng phải áp dụng. Trên thực tế hiện nay nhiều vụ án gây thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng, như vậy nếu bị cáo bồi thường vài triệu mà được áp dụng điểm b thì có thỏa đáng không. Vấn đề này còn phải tùy thuộc vào mức thiệt hại, khả năng kinh tế của bị cáo, nếu bị cáo đã bán hết tài sản để bồi thường được một phần rất nhỏ thì nên xem xét áp dụng tình tiết “ăn năn, hối cải” mà không áp dụng tình tiết bồi thường thì hợp lý hơn không. Có trường hợp tài sản trộm cắp đã được bị cáo trả lại sau khi chiếm đoạt, có quan điểm cho rằng đây không phải là tiền bồi thường nên không áp dụng tình tiết “tự nguyện bồi thường” là đúng, nên chăng áp dụng tình tiết “khắc phục hậu quả” cho bị cáo.

Và một khó khăn trong thực tiễn xét xử hiện nay đó là áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo Điều 65 BLHS quy định về án treo và Điều 91 BLHS quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP-TANDTC ngày 15/5/2018 hướng dẫn về áp dụng án treo, cũng không có quy định nào về việc ưu tiên áp dụng án treo đối với người chưa thành niên. Và thực tế cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể việc giao người chưa thành niên cho cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để giám sát, giáo dục trong trường hợp họ được hưởng án treo.

Đồng thời, trình độ hiểu biết pháp luật của một số cán bộ Thẩm phán, Hội thẩm còn chưa tương đồng, còn hạn chế dẫn đến áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng có lúc còn chưa thống nhất cao. Đa số cán bộ Thẩm phán, Hội thẩm có nhận thức chưa chuẩn xác về các quy định hình phạt,

cho rằng chỉ có áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thì mới đủ sức răn đe và phòng chống tội phạm, còn các hình phạt khác không phải tù thì không có tác dụng, không hiệu quả nhiều trong cải tạo, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Mặc khác, việc tăng thẩm quyền giải quyết cho Tòa án nhân dân cấp huyện, số lượng các vụ án hình sự ngày càng gia tăng, tính chất ngàycàng phức tạp, thủ đoạn hoạt động phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn rất nhiều... Trong khi đó, số lượng Thẩm phán, Hội thẩm để bố trí cho các Tòa án nhân dân các cấp còn thiếu nhiều do thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về không tăng tổng biên chế hiện có. Đây là nguyên nhân chính, dẫn đến tình trạng án quá tải, gây áp lực cho Thẩm phán, tỷ lệ giải quyết án không cao, tỷ lệ án bị cải, sửa, hủy vẫn còn nhiều, nên chất lượng xét xử không được đảm bảo.

- Nguyên nhân chủ quan.

+ Đội ngũ cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ trực tiếp xét xử, giải quyết các loại vụ việc nói chung và các vụ án hình sự nói riêng còn chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Cá biệt còn có Thẩm phán, Hội thẩm làm việc với tinh thần trách nhiệm chưa cao, nên chất lượng và hiệu quả công tác còn có những hạn chế nhất định.

+ Việc cải tiến lề lối phương pháp làm việc, hiện nay ngành Tòa án cũng đã đưa ra những sáng kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển để đạt kết quả tốt trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.Tuy nhiên, do một số khó khăn, hạn chế nói chungvẫn đang tồn tại, cụ thể việc áp dụng hình phạt còn chưa được thống nhất,do đó chưa thể thực hiện một cách đồng bộ trong toàn hệ thống ngành Tòa án.

+ Việc kiểm tra, đôn đốc trong công tác xét xử, giải quyết các loại vụ việc nói chung và án hình sự nói riêng của Lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa thường xuyên, nên chưa phát hiện được những yếu kém, thiếu xót trong công tác này, để có những biện pháp chấn chỉnh và khắc phục kịp thời. Trong một số trường hợp cụ thể còn chưa thực sự tích cực, chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan hoặc ngay cả giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử để giải quyết kịp thời.

Kết luận chương 2

Qua số liệu thụ lý vụ án và số liệu áp dụng phạt tù có thời hạn của Tòa án nhân dân quận GòVấp, cho thấy: Đa số các vụ án giải quyết đúng thời hạn, tỷ lệ xét xử cao, hạn chế để án tồn đọng. Về mặt nội dung giải quyết các vụ án đều có kết quả tốt, áp dụng phạt tù có thời hạn có tỷ lệ cao, bảo đảm xét xử đúng pháp luật, không có án bị sai, oan và không bỏ lọt tội phạm.Không có án bị hủy vì vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cũng như về nội dung theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.Tuy nhiên, có thể nói mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa của hoạt động áp dụng phạt tù có thời hạn chưa đạt được, bởi vì tội phạm gây án tại địa bàn quận Gò Vấp vẫn còn xẩy ra rất nhiều và ngày càng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn.

Những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng phạt tù có thời hạn do nhiều nguyên nhân.Nguyên nhân chủ yếu vẫn là những bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự, sự hạn chế khi hướng dẫn áp dụng pháp luật và năng lực của chủ thể áp dụng.

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN QUẬN GÒ VẤP

3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụnghình phạt tù có thời hạn.

-Cải cách tư pháp

Việc vẫn coi trừng trị là mục đích chính của hình phạt đã tạo ra một chính sách sai lầm là coi nặng tính trừng trị với các biện pháp trách nhiệm hình sự hà khắc thái quá làm giảm hiệu quả phòng ngừa. Nhận thức đó đã tạo ra một thực tiễn áp dụng pháp luật, dư luận xã hội đi ngược lại với chính sách, với quy định của pháp luật: hình phạt tù có thời hạn được áp dụng phổ biến nhất, chiếm tỷ lệ cao; các biện pháp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, các hình phạt không phải tù, các biện pháp thay thế hình phạt… ít được áp dụng trên thực tế. Việc quy định và áp dụng các hình phạt tù có thời hạn chỉ coi nặng tính trừng trị mà chưa tính đến hậu quả xã hội tiêu cực có thể tạo ra các nguyên nhân, điều kiện cho việc phát sinh, phát triển của tình hình tội phạm.Nhận thức xã hội nói chung, của những người áp dụng pháp luật hình sự nói riêng vẫn chưa đồng hành cùng chính sách hình sự được xác định.Việc xử lý nhân đạo, hướng thiện đối với người phạm tội vẫn chưa nhận được sự đồng tình cao của dư luận xã hội. Công lý, công bằng chưa được coi là tiêu chí cao nhất của một nền tư pháp tiến bộ…

Trong thời gian qua, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong công tác tư pháp như áp dụng hình phạt tù có thời hạn chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm của người phạm tội, kết án quá nặng hoặc quá nhẹ; án oan sai, bỏ lọt tội phạm vẫn còn xẩy ra ở một vài Tòa án địa phương, ảnh hưởng không tốt đến quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.Những hạn chế, bất cập này đã tạo dư luận không tốt trong xã hội về ngành Tư pháp.

Theo tinh thần các Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nhà nước ta đã và đang

tiếp tục thực hiện chủ trương cải cách tư pháp. Do đó cần phải đáp ứng kịp thời nhiều yêu cầu, trong đó yêu cầu về cải cách tư pháp là rất quan trọng, có như vậy áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đạt được kết quả tốt và có hiệu quả.

Để đảm bảo yêu cầu của cải cách tư pháp, trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, Tòa án căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, xem xét một cách toàn diện từ hành vi, nhân thân, lỗi của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong vụ án, có vậy mới quyết định áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.Và để thực hiện được những mục tiêu cải cách tư pháp đặt ra, các tình tiết có ý nghĩa và ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cần phải được Quốc hội thể chế hóa cụ thể, có vậy chất lượng hoạt động áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới được nâng cao.

-Tăng cường tính nhân đạo của việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự; Coi trọng phòng ngừa hơn chống tội phạm; Giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù là một nội dung cơ bản trong chính sách hình sự.

Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn vì mục đích giáo dục, răn đe người phạm tội có ý thức tuân theo pháp luật và ngăn ngừa người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội khác. Đây là mục đích chính và là nội dung cơ bản của bản chất hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam, nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành có ích cho xã hội. Cũng theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng thể hiện:“Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế. Phân định rò thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền

hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Xác định rò căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm;thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam”.[5].

Nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản, sự hiện hữu của nguyên tắc này trong hầu hết các chương của Bộ luật Hình sự. Nguyên tắc này thể hiện trong từng chế định pháp luật cụ thể như chế định về tội phạm; Chế định hình phạt như mục đích áp dụng hình phạt là cải tạo người phạm tội; Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội, khi xử phạt tù có thời hạn, người chưa thành niên được hưởng mức án nhẹ hơn. Mục đích thể chế hóa nguyên tắc nhân đạo trong Bộ luật Hình sự nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.

Có thể thấy về nguyên tắc xử lý tội phạm, tính nhân đạo được qui định tại Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra (Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đây được xem là điều luật bao quát nhất, thể hiện một cách tổng quan nhất nguyên tắc nhân đạo mà pháp luật hình sự quan tâm chú trọng, là sự thể chế rò ràng nhất chủ trương của Bộ Chính trị, dùng pháp luật hình sự với vai trò răn đe, phòng ngừa là chính, các chế định hình phạt xử lý các tội phạm được xây dựng trên cơ sở nhân đạo, hướng thiện, với mục đích giáo dục ý thức người phạm tội, giúp họ nhận thức đúng đắn về hành vi có lỗi và trách nhiệm của bản thân, tạo điều kiện tối đa cho người phạm tội có cơ hội tự sửa chữa, hòa nhập cộng đồng. Bộ luật hình sự quy định mở rộng cả về loại tội phạm và lĩnh vực phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với tội rất nghiêm trọng thuộc nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng, có 10 tội danh thay đổi hình phạt tù bằng hình phạt tiền.

Xem tất cả 88 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí