Tăng Cường Công Tác Phòng, Chống Các Loại Tội Phạm Nguồn, Đặc Biệt Là Tội Phạm Tham Nhũng


Đối với pháp luật hình sự, cần quy định rửa tiền là tội phạm riêng để nâng cao hiệu quả áp dụng trong quá trình phòng chống tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia nói chung và phòng chống rửa tiền nói riêng. Bộ luật hình sự cũng cần hình sự hoá những hành vi đã được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động rửa tiền như: tội làm giàu bất minh, để buộc các cá nhân có tài sản tăng đáng kể so với thu nhập của mình mà không giải thích được nguồn gốc của nó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Bên cạnh đó cần xây dựng các quy định về biện pháp tịch thu tiền và tài sản do phạm tội mà có. Các biện pháp tịch thu là sự nối tiếp tất yếu của các biện pháp trấn áp tội phạm rửa tiền. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan mang tính chất bổ trợ như: Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật quản lý thuế, Luật thuế tài sản, pháp luật về đăng ký giao dịch… cần đưa ra những quy định hợp lý góp phần kiểm soát thu nhập và tài sản của cá nhân, tránh hiện tượng cá nhân có tài sản tăng lên một cách bất hợp pháp nhưng không được kiểm soát và không chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Cần xây dựng cơ quan với chức năng và vai trò theo khuyến nghị số 26 của FATF: "Các quốc gia phải thành lập các cơ quan tình báo tài chính hoạt động như trung tâm quốc gia để tiếp nhận (và yêu cầu, nếu được phép), phân tích và phổ biến cáo giao dịch nghi ngờ và các thông tin khác về việc rửa tiền và tài trợ khủng bố có nguy cơ xảy ra. Cơ quan tình báo tài chính phải được tiếp cận, trực tiếp hoặc gián tiếp, một cách kịp thời các thông tin tài chính, hành chính và hành pháp mà cơ quan yêu cầu để thực hiện đúng đắn chức năng của mình bao gồm cả phân tích báo cáo giao dịch nghi ngờ". Hiện nay, Cục Phòng, chống rửa tiền chưa có vị trí độc lập như của các quốc gia khác đồng thời Cục không có quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp các thông tin về giao dịch nghi vấn mà phải thực hiện đề xuất thông qua Chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng.

3.2.2 Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt

Ở Việt Nam, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán trong những năm qua mặc dù đã giảm nhưng vẫn còn cao so với thế giới. Có thể thấy,


việc sử dụng tiền mặt quá lớn trong thanh toán ở nước ta là điều kiện lý tưởng cho tham nhũng, trốn thuế và các gian lận tài chính khác. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại thì quy định về hạn chế thanh toán bằng tiền mặt vẫn chưa được nhiều người dân biết đến và việc quản lý, xử phạt hành vi vi phạm vẫn còn bị bỏ ngỏ. Do đó, Nhà nước cần thực hiện:

Đối với khuôn khổ pháp lý: Bổ sung, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và các cơ chế chính sách hạn chế thanh toán bằng tiền mặt. Các cơ chế, chính sách thanh toán không dùng tiền mặt phải được chỉnh sửa, thay thế cho đồng bộ, đầy đủ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến thanh toán điện tử để phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu người sử dụng.

Đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ: Nhà nước cần sớm ban hành và áp dụng chính sách hỗ trợ tài chính cụ thể (giảm, hoàn thuế đối với phần doanh thu phát sinh từ hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt) để từ đó khuyến khích người dân và doanh nghiệp thực hiện thanh toán không bằng tiền mặt.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin và hướng dẫn người dân: Đặc biệt là người dân tại khu vực nông thôn có thói quen sử dụng tiền mặt trong hoạt động thanh toán hàng ngày. Do đó ý thức của người dân, doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong việc hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, mỗi người cần phải hy sinh lợi ích trước mắt để hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

3.2.3 Tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm nguồn, đặc biệt là tội phạm tham nhũng

Để công tác phòng chống rửa tiền hiệu quả thì việc phòng, chống các loại tội phạm nguồn như: ma túy, buôn lậu, trốn thuế … và đặc biệt là tham nhũng cần phải được quan tâm đúng mức. Tình trạng tham nhũng tại Việt Nam không được cải thiện trong những năm qua. Ngày 28/01/2016, Tổ chức Minh bạch quốc tế (Transparency International - TI) công bố Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam năm 2015 xếp thứ 112/168 nền kinh tế, với điểm số 31/100 không đổi từ năm

Giải pháp phòng chống rửa tiền qua hệ thống ngân hàng Việt Nam - 10


2012 đến nay. Trước đó, năm 2014, Việt Nam xếp thứ 119/176 quốc gia nằm trong danh sách điều tra về cảm nhận tham nhũng của TI. Như vậy, nếu xét trên thứ hạng, năm 2015, Việt Nam đã tăng được 7 bậc, từ thứ 119 lên thứ 112. Tuy vậy, về bản chất, việc thăng hạng như trên gần như là vô nghĩa bởi tình trạng tham nhũng của Việt Nam vẫn chưa hề được cải thiện trong cảm nhận của cộng đồng doanh nghiệp và giới chuyên gia nghiên cứu. Do đó việc phòng chống tham nhũng cần phải được thực hiện đồng bộ giữa các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương:

Chính phủ tập trung xây dựng và củng cố các chính sách nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền, đồng thời giảm tham nhũng trong các lĩnh vực công được coi là thường xảy ra tham nhũng nhất.

Cần có sự điều phối tốt hơn và phân định rõ ràng hơn về chức năng và quyền hạn của các cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng nhằm đảm bảo các cơ quan này hoạt động hiệu quả.

Việt Nam cần sớm ban hành và đảm bảo thực thi hiệu quả Luật tiếp cận thông tin. Bộ luật này cần phải đáp ứng được các tiêu chuẩn và nguyên tắc quốc tế, đảm bảo khả năng tiếp cận thông tin của người dân đối với hoạt động của các cơ quan công quyền.

Trong bối cảnh Việt Nam đang sửa đổi Bộ Luật Hình sự và có kế hoạch đánh giá 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, mọi thay đổi đối với hai văn bản luật này cần đảm bảo tính nhất quán và phù hợp với các yêu cầu trong Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là một thành viên.

Các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng cần được gia tăng quyền hạn, đồng thời phải đảm bảo trách nhiệm giải trình. Chính phủ nên cân nhắc việc chỉ định một cơ quan với đầy đủ chức năng, thẩm quyền, sự độc lập và năng lực để điều hành, điều phối và chịu trách nhiệm giải trình về công tác thực thi pháp Luật Phòng, chống tham nhũng.


Thực hiện cơ chế giám sát dư luận xã hội, giám sát của công chúng: xây dựng cơ chế phát hiện, tố giác hành vi tham nhũng từ nhân dân, báo chí, đảm bảo an toàn cho người tố giác. Đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích, khen thưởng người tố cáo, tố giác hành vi tham nhũng.

Đánh giá, xem xét điều chỉnh thu nhập đối với cán bộ công viên chức Nhà nước phù hợp với tình hình kinh tế. Một khi thu nhập của cán bộ được đảm bảo thì sẽ hạn chế tình trạng tham nhũng.

3.3 Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước

3.3.1 Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước và quốc tế về phòng chống rửa tiền

Hoạt động rửa tiền thực chất là tội phạm "phái sinh" từ các loại tội phạm khác. Chính vì vậy, việc phòng, chống tội phạm này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN với các bộ, ngành khác như Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Bộ Tư pháp, Bộ xây dựng…trong việc hướng dẫn, kiểm tra chấp hành các biện pháp phòng chống rửa tiền của các tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý. Đặc biệt cần có sự phối hợp đồng bộ giữa ngành ngân hàng và công an:

-Cần có sự phản hồi hiệu quả: Cục Phòng, chống rửa tiền thường xuyên cập nhật "danh sách đen" từ Bộ để cung cấp thông tin cho các ngân hàng theo dõi, đánh giá. Bộ Công an căn cứ vào các báo báo giao dịch đáng ngờ được gửi từ Cục Phòng, chống rửa tiền để tiến hành điều tra và phản hồi kết quả.

-Các cơ quan liên quan cùng cộng tác để nghiên cứu, trao đổi về các loại hình rửa tiền để từ đó đưa ra phương thức phòng, chống phù hợp và hiệu quả.

Bên cạnh đó, trong hoạt động phòng chống rửa tiền thì hợp tác quốc tế đóng vai trò vô cùng quan trọng vì tội rửa tiền mang tầm vóc quốc tế, đây là loại tội phạm thường được thực hiện ở nhiều quốc gia và liên quan đến tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia. Đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này phải có sự hợp tác, phối hợp giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đã tham gia, ký kết


các điều ước quốc tế là những văn bản pháp lý có hiệu lực chung giữa các quốc gia thành viên. Từ đó, hợp tác trên những lĩnh vực cụ thể như trao đổi thông tin về khách hàng. Thông qua việc trao đổi này, cơ quan điều tra của các quốc gia liên quan giúp nhau phát hiện và hoàn thiện hồ sơ để xử lý các băng nhóm tội phạm xuyên quốc gia. Bên cạnh đó, nhờ sự hỗ trợ của các nước bạn về công nghệ, kinh nghiệm là điều vô cùng quan trọng trong công tác phòng chống rửa tiền còn sơ khai tại Việt Nam. Hợp tác quốc tế trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền của hai bên.

Tóm lại, NHNN cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong nước cũng như các nước trong việc hỗ trợ giúp đỡ nhau trong phòng chống rửa tiền.

3.3.2 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tăng cường công tác đào tạo về phòng chống rửa tiền

Công tác nhận thức trong việc phòng chống rửa tiền là hết sức quan trọng. Người dân và doanh nghiệp khá e dè với việc thông tin họ bị tiết lộ và lo lắng về việc giao dịch của họ tại ngân hàng có thể bị đưa vào kiểm soát. Do đó, NHNN cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích để người dân hiểu, an tâm. Tăng cường tập huấn cho giới báo chí về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố là một trong những cách thức nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng về vấn đề này.

NHNN mà đầu mối là Cục Phòng, chống rửa tiền cần đẩy mạnh công tác đào tạo về phòng chống rửa tiền cho cán bộ NHTM nhằm trang bị những kỹ năng cơ bản, cần thiết trong quá trình giao dịch với khách hàng.

Việc thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm về phòng chống rửa tiền với các NHTM tạo cơ hội cho Cục Phòng, chống rửa tiền tiếp nhận các ý kiến phản hồi của các ngân hàng trong quá trình tác nghiệp cũng như là cơ hội trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng với nhau. Từ đó đưa ra các biện pháp nhằm tăng hiệu quả trong công tác phòng chống rửa tiền.


3.3.3 Thực hiện thanh tra, kiểm tra và thường xuyên giám sát các ngân hàng thương mại

NHNN cần thanh tra, giám sát hoạt động phòng chống rửa tiền của các NHTM để đánh giá mức độ tuân thủ của các ngân hàng về các quy định thành lập hệ thống kiểm soát nội bộ phòng chống rửa tiền, công tác đào tạo nhân viên, thực hiện nghĩa vụ nhận biết khách hàng, nhận biết các giao dịch đáng ngờ…Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp xử lý tránh tình trạng các NHTM chỉ làm hình thức mà không thực hiện nghiêm túc công tác phòng chống rửa tiền.

Bên cạnh ban hành quy chế giám sát các NHTM, NHNN cần đưa tiêu chí "tuân thủ các quy định về phòng chống rửa tiền" vào trong bộ tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng các ngân hàng, là một trong các điều kiện cần thiết để thực hiện một số nghiệp thanh toán quốc tế, phê duyệt mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân hàng.

3.3.4 Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong công tác phòng chống rửa tiền

Việc ứng dụng các phần mềm tiên tiến vào công tác phòng chống rửa tiền sẽ giúp cho các ngân hàng phát hiện kịp thời và ngăn chặn được các giao dịch đáng ngờ một cách nhanh chóng. Tuy nhiên hiện nay phần lớn các ngân hàng Việt Nam chưa đủ điều kiện để vận dụng vào công tác phòng chống rửa tiền tại đơn vị mình vì nhiều lý do. Do đó, NHNN cần phải tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển, đầu tư nghiên cứu để đưa các phần mềm công nghệ tiến bộ vào các ngân hàng.

Bên cạnh đó, Cục phòng, chống rửa tiền cần phải được đầu tư, trang bị hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để có thể thu thập, phân tích thông tin về các giao dịch, báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các ngân hàng một nhanh chóng và kịp thời. Từ đó, Cục có thể phát hiện chính xác, nhanh chóng những giao dịch có nguy cơ rửa tiền, đưa ra cảnh báo với các ngân hàng và chuyển dữ liệu cho cơ quan điều tra.


Ngoài ra, NHNN cần xây website với tốc độ và đường truyền nhanh, cập nhật mới nhất và nhanh nhất danh sách đen, danh sách cá nhân có ảnh hưởng chính trị, danh sách cảnh báo để các ngân hàng truy vấn và cập nhật kịp thời.

3.4 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại

3.4.1 Hoàn thiện mô hình tổ chức phòng chống rửa tiền

Hoàn thiện mô hình tổ chức toàn diện từ Hội sở chính, chi nhánh đến các công ty trực thuộc trong hệ thống NHTM Việt Nam là điều kiện vô cùng quan trọng trong việc thực hiện phòng chống rửa tiền có hiệu quả. Tại Hội sở chính, phải có được bộ phận phụ trách phòng chống rửa tiền chuyên trách, chuyên xử lý phân tích các báo cáo, thu thập dữ liệu giao dịch, khách hàng. Tại chi nhánh và các công ty trực thuộc mỗi một đơn vị cũng cần phải có bộ phận xử lý phòng chống rửa tiền chuyên trách và liên hệ làm việc trực tiếp, nhận hỗ trợ từ bộ phận phụ trách phòng chống rửa tiền chuyên trách tại hội sở chính.

Việc hỗ trợ và nhận thức rủi ro về phòng chống rửa tiền từ ban lãnh đạo cũng là một điều kiện tiên quyết cho một hệ thống phòng chống rửa tiền thành công, do vậy, mỗi NHTM cần có một lãnh đạo phụ trách về phòng chống rửa tiền.

Ngoài ra, để kiểm soát tính tuân thủ trong thực hiên phòng chống rửa tiền thì không thể thiếu bộ phận kiểm soát. Các ngân hàng thành lập bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động độc lập trực thuộc Hội đồng quản trị. Thông qua hoạt động của bộ máy kiểm toán nội bộ, ngân hàng giám sát việc chấp hàng các quy định của ngân hàng, quy định của pháp luật.

3.4.2 Xây dựng chính sách nhận biết khách hàng

Nhận biết khách hàng là tất cả các thủ tục cần thiết nhằm nhằm bắt được những thông tin có liên quan tới cá nhân, tổ chức có giao dịch tiền tệ hay tài sản khác với ngân hàng, nhằm hiểu biết khách hàng, khách hàng đến giao dịch với ngân hàng thuộc đối tượng bào, khu vực cư trú nào và có thể gây ra những rủi ro nào cho ngân hàng.


Nội dung xây dựng chính sách nhận biết khách hàng gồm: Nhận dạng khách hàng, Chấp nhận khách hàng, Quản lý thường xuyên các tài khoản và giao dịch, Quản lý rủi ro và Lưu trữ hồ sơ.

Nhận dạng đến khách hàng


Ngân hàng cần phải xác định được ai mới là khách hàng thật sự của ngân hàng, xác minh xem liệu khách hàng đang giao dịch với ngân hàng cho nhu cầu của chính mình hay cho người khác. Nhân viên ngân hàng khi giao dịch với khách hàng cần biết rõ khách hàng mình là ai, làm lĩnh vực gì, nguồn tiền đó từ đâu mà có…Thời gian thích hợp nhận dạng là khi tiếp nhận khách hàng mới, khi một số nội dung thông thường trên giấy tờ của khách hàng bị thay đổi đáng kể hoặc khi có sự thay đổi trên tài khoản so với hoạt động thông thường của khách hàng. Quá trình nhận dạng khách hàng được áp dụng một cách khách quan không phụ thuộc vào mối quan hệ với khách hàng.

Việc nhận dạng khách hàng còn bao gồm việc chú ý khách hàng không thường xuyên nhưng giao dịch số tiền lớn, vượt ngưỡng quy định hoặc khi nhân viên giao dịch thấy bất cứ sự nghi ngờ nào về khách hàng, khi đó cần phải báo cáo cấp thẩm quyền để kịp thời xử lý. Đối với các khách hàng mở nhiều tài khoản hoặc giao dịch tại nhiều chi nhánh trong hệ thống thì các ngân hàng phải có quy trình nhận dạng đặc biệt để đảm bảo dịch vụ mà mình cung cấp không bị lợi dụng để thực hiện rửa tiền.

Một khi ngân hàng hiểu được những vấn đề mấu chốt của khách hàng thì ngân hàng vừa có thể đáp ứng yêu cầu về phòng chống rửa tiền vừa để phục vụ khách hàng tốt nhất. Vì vậy, ngân hàng cần thu thập thông tin và tìm hiểu khách hàng kỹ lưỡng trên tất cả các hoạt động nghiệp vụ then chốt của ngân hàng như nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh, huy động vốn, chuyển tiền…Bên cạnh đó, ngân hàng cần hoàn thiện việc quản lý thông tin khách hàng để bất kỳ lúc nào truy cập vào hệ

Ngày đăng: 17/12/2022