Sự Cần Thiết Của Việc Hoàn Thiện Bộ Luật Hình Sự Việt Nam Về Các Tội Phạm Khác Về Chức Vụ

đổi, bổ sung kịp thời Bộ luật hình sự về các tội phạm khác về chức vụ. Ví dụ: Luật cán bộ, công chức năm 2008, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi năm 2013; v.v... đòi hỏi phải nghiên cứu, so sánh với các quy định của Bộ luật hình sự.

Năm là, sự kết hợp đồng bộ và hệ thống nhiều giải pháp để đấu tranh, xử lý các tội phạm khác về chức vụ trong thực tiễn còn chưa được triệt để, chưa làm rõ bức tranh tội phạm “ẩn” trong nhóm tội phạm này, từ đó, ở một chừng mực nhất định làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm khác về chức vụ nói riêng.

3.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ

Từ việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về các tội phạm khác về chức vụ trong Chương 1, phân tích các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về các tội phạm này trong Chương 2, cũng như đánh giá thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2008 - 2012) trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong Chương 3 luận văn cho thấy, sự cần thiết của việc hoàn thiện Bộ luật hình sự nước ta về các tội phạm khác về chức vụ là rất cần thiết thể hiện trên ba phương diện - chính trị - xã hội, lập pháp hình sự, cũng như lý luận và thực tiễn dưới đây.

3.2.1. Về phương diện chính trị - xã hội

Ngày nay, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế thì việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật là một việc làm hết sức quan trọng, đã và đang được Đảng và Nhà nước ta đề ra trong mục tiêu và phương hướng nhiệm vụ phát triển đất nước ta đến năm 2020.

Tuy nhiên, nhiều vấn đề nhức nhối đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết kịp thời như: khoảng cách chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng lớn, sự gia tăng dân số, tình trạng khan hiếm nguồn năng lượng, cạn kiệt tài

nguyên, môi trường tự nhiên bị hủy hoại, biến đổi khí hậu toàn cầu, sự ấm lên của trái đất, các loại dịch bệnh nguy hiểm, tệ nạn xã hội và tội phạm, vấn nạn tắc đường và tai nạn giao thông... dẫn đến những khó khăn trong phát triển kinh tế, thay đổi cơ cấu xã hội, cùng với đó là sự nhũng nhiễu, vụ lợi, lạm quyền, nhận hối lộ... của một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất; v.v... Tất cả những điều này tác động không nhỏ đến các cán bộ, công chức, đến việc thực hiện các hoạt động công vụ, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức, đến uy tín, sức mạnh và chất lượng hoạt động của cơ quan, tổ chức.

Vì vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản năm 2011 đã đề ra: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp...” [15]. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ rõ: “Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân...” [15].

Đặc biệt, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị quy định các nhiệm vụ cải cách tư pháp đã nhấn mạnh như sau: “Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao và lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác...”.

Vì vậy, để bảo vệ uy tín của cán bộ, công chức nhà nước và cơ quan nhà nước, bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tập thể và công dân, bảo đảm cho các cơ quan nhà nước hoạt động đúng đắn và chống tội phạm trong lĩnh vực này trước yêu cầu mới của đất nước, trước những khó khăn, thách thức chung của đất nước, thì việc nghiên cứu để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự về các tội phạm khác về chức vụ là yêu cầu cần thiết.

Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 14

3.2.2. Về phương diện lập pháp hình sự

Vừa qua, Định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự trong Đề cương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự ngày 24/9/2012 của Ban Soạn thảo sửa đổi Bộ luật hình sự đã đề cập một định hướng sửa đổi, bổ sung là: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm về chức vụ, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như các cơ quan điều tra, kiểm soát, xét xử, thi hành án nói riêng trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Đặc biệt, đối với các tội phạm về tham nhũng, cần sửa đổi Bộ luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TƯ của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI), đồng thời, đáp ứng yêu cầu của Công ước chống tham nhũng mà nước ta là thành viên, nhất là vấn đề tham nhũng trong lĩnh vực tư...”.

Ngoài ra, ngày 06/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết

định số 1217/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012 - 2015. Theo đó, mục tiêu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý Nhà nước với công tác phòng, chống tội phạm; giữ vững kỷ cương pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật của các cấp, các ngành và trong cộng đồng dân cư, trong các cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, nhà trường, gia đình và toàn xã hội; chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công trấn áp, truy quét các loại tội phạm, tập trung ở các tuyến, địa bàn, lĩnh vực trọng điểm, phức tạp; kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm về chức vụ nói chung, các tội phạm khác về chức vụ nói riêng là yêu cầu có tính thời sự.

3.2.3. Về phương diện lý luận - thực tiễn

Hiện nay, trong xã hội, tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được khắc phục dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, gây mất lòng tin trong nhân dân đối với Nhà nước. Những diễn biến phức tạp của các tội phạm về kinh tế, tham nhũng và chức vụ trong những năm gần đây cho thấy, vi phạm pháp luật về kinh tế, chức vụ và tham nhũng vẫn tiềm ẩn trong các ngành, các cấp, các doanh nghiệp, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, đặc biệt trong khâu quản lý, sử dụng đất đai, giải phóng mặt bằng, phê duyệt và triển khai các dự án xây dựng cơ bản. Bên cạnh đó, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, quản lý kinh tế, thực hiện chính sách xã hội cũng khó lường, gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước. Đặc biệt,

cách thức, thủ đoạn của các đối tượng được che đậy kín kẽ hơn, nhiều vụ án còn có sự tiếp tay hoặc do sự vô trách nhiệm của một số cán bộ nhà nước tạo thành đường dây khép kín, gây khó khăn trong công tác điều tra, phát hiện. Tệ nạn hối lộ, nhũng nhiễu, vụ lợi của công chức đang diễn biến phức tạp và ngày càng nguy hiểm.

Cùng với đó, thực tiễn xét xử cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần được tổng kết, đánh giá. Tất cả những điều này đã làm cho nhiều quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm chức vụ không đáp ứng được yêu cầu làm cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm về chức vụ trong đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về các tội phạm khác về chức vụ là hết sức cần thiết, nó sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm về chức vụ đạt hiệu quả cao hơn, cũng như đây cũng là mục tiêu, nhiệm vụ đã được Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, đưa pháp luật Việt Nam cùng hòa nhập với pháp luật khu vực và pháp luật quốc tế. Có như vậy chúng ta mới có thể bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, cũng như bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.‌

Do vậy, từ ba phương diện đã nêu đặt ra sự cần thiết của việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm khác về chức vụ hơn bao giờ hết.

3.3. NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ

3.3.1. Nhận xét chung

Nghiên cứu các quy định của Mục B - Các tội phạm khác về chức vụ trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh thời gian vừa qua, cũng như tham khảo kinh nghiệm lập pháp hình sự trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới cho phép chúng tôi đưa ra bảy nhận xét sau:

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung nội dung Điều 277 về “Khái niệm tội phạm về chức vụ” cho thống nhất với nội dung của Mục A - Các tội phạm về tham nhũng và Mục B - Các tội phạm khác về chức vụ, cũng như tên Chương XXI - “Các tội phạm về chức vụ”, qua đó bao quát các trường hợp phạm tội do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hoặc do chủ thể thường thực hiện nhưng hành vi của họ liên quan đến hoạt động công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung tên gọi của Điều 277 là “Khái niệm các tội phạm về chức vụ và người có chức vụ, quyền hạn” cho bao quát nội dung của Điều luật này.

Thứ hai, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (hoặc Tòa án nhân dân tối cao) cần có văn bản hướng dẫn tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” hoặc “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác” trong tất cả bảy điều luật mà chúng tôi đã đề cập ở trên.

Thứ ba, sửa đổi, bổ sung nội dung Điều 285 Bộ luật hình sự về “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” như sau: Điều luật quy định hai khung hình phạt (khoản 1, 2) và hình phạt bổ sung (khoản 3). Trong khung hình phạt cơ bản, các nhà làm luật đã kết hợp chế tài của hình phạt tù có thời hạn đến 5 năm tù và chế tài lựa chọn (cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù), khung tăng nặng quy định hai tình tiết có nội dung như nhau nhưng lại có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung hình phạt: gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, cần tách các loại hình phạt và mức độ hậu quả ra thành những mục riêng, đồng thời bổ sung hình phạt tiền trong khoản 1 Điều luật này.

Thứ tư, nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng và thực tiễn xét xử của Việt Nam, cũng như nghiên cứu lý luận về các tội phạm hối lộ, đồng thời qua phân tích các quy định của Công

ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng (đã nêu), chúng tôi xin đề xuất xây dựng một tội phạm mới trong Mục A - Các tội phạm về tham nhũng là “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”.

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung tội đưa hối lộ (Điều 289) và tội làm môi giới hối lộ (Điều 290 Bộ luật hình sự) như sau:

- Cần mô tả trong nội dung điều luật về hành vi đưa hối lộ và hành vi làm môi giới hối lộ chứ không nên để tình trạng giải thích thông qua sự mô tả của hành vi nhận hối lộ. Hơn nữa, trong định nghĩa cần xác định rõ dấu hiệu người được hưởng lợi từ việc hối lộ. Dấu hiệu này không được xác định rõ có thể gây ra hiện tượng nhầm lẫn về chủ thể của tội phạm hoặc bỏ lọt tội phạm.

- Cần phải mở rộng phạm vi trấn áp đối với các hành vi “gợi ý”, “hứa hẹn” hối lộ chứ không phải chỉ với hành vi đưa hối lộ như hiện nay. Ngoài ra, do chính sách hình sự của Nhà nước ta đặt nhiệm vụ đấu tranh phòng và chống cả hai hành vi liên quan chặt chẽ với nhau là “đưa” và “nhận hối lộ”, bởi lẽ, “thông qua việc mua chuộc cán bộ, đảng viên bằng tiền hoặc lợi ích vật chất không chỉ làm mất cán bộ, mà thông qua đó còn xâm phạm đến sự sống còn của chế độ. Chính vì vậy, hối lộ được coi là giặc nội xâm, không chỉ đối với hành vi nhận hối lộ mà cả đối với hành vi đưa hối lộ...” [1]. Cho nên, cần ghi nhận thời điểm hoàn thành của tội đưa hối lộ không chỉ “đưa” mà còn cả “sẽ” đưa cho tương ứng với thời điểm hoàn thành của tội nhận hối lộ (“đã” nhận và “sẽ” nhận) theo cách quy định của Công ước.

- Trong xu thế phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nên mở rộng phạm vi đối tượng được hối lộ đến các khu vực quốc tế khu vực tư để không bỏ lọt tội phạm và phù hợp với luật pháp quốc tế.

Thứ sáu, cần bổ sung thêm nội dung “tuy không bị ép buộc” vào điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ. Bởi

lẽ, có như vậy mới bảo đảm sự công bằng giữa người có hành vi đưa hối lộ và người có hành vi môi giới hối lộ. Ngoài ra, đoạn 2 khoản 6 Điều 289 quy định “Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự...” nhưng khoản 6 Điều 290 Bộ luật hình sự thì “Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Cho nên, nếu người làm môi giới hối lộ vì bị ép buộc mới ra khai báo trước khi bị phát giác thì cũng không thể xem xét cho họ được miễn trách nhiệm hình sự được. Hơn nữa, việc người phạm tội này tuy không bị ép buộc mà chủ động ra khai báo với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi bị phát giác mới thể hiện sự ăn năn hối cải và do vậy rõ ràng mới xứng đáng để được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước - có thể được miễn trách nhiệm hình sự... [59].

Thứ bảy, cần bổ sung dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” vào khoản 1 Điều 291 Bộ luật hình sự về tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi để không bỏ lọt tội phạm, cũng như nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

3.3.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể trong Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm khác về chức vụ

Từ những nhận xét, phân tích trên, nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể về các tội phạm khác về chức vụ trong Bộ luật hình sự Việt Nam như sau (những chữ in đậm, nghiêng là kiến nghị theo quan điểm của chúng tôi):

Chương XXI

CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ

Điều 277. Khái niệm các tội phạm về chức vụ và người có chức vụ, quyền hạn (sửa đổi)

Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/02/2023