Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 13

tranh chấp quyền sở hữu nhà. Qua dò hỏi, biết được ông Võ Trọng H. (Tòa án nhân dân thành phố H.) là người được giao thụ lý, xét xử vụ này nên khi nghe thẩm phán H. gợi ý về số tiền “bồi dưỡng” để giúp đỡ theo hướng có lợi, ông

G. đã đồng ý. Sau đó, ông G. đã đưa cho H. ba lượng vàng SJC và một triệu đồng. Cuối tháng 12/2002, thấy thẩm phán H. vẫn chưa đưa vụ án ra xử mà tiếp tục đòi đưa thêm năm triệu đồng nữa nên ông G. nghi ngờ thẩm phán H. không thực hiện lời hứa. Ngày 15/3/2003, ông G. hẹn ông H. ra quán cafe, ghi âm toàn bộ cuộc nói chuyện làm bằng chứng và đơn tố giác việc ông Hiếu nhận hối lộ đến các cơ quan chức năng. Về hành vi của ông G., ngày 04/5/2004, các cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử ông G. về tội đưa hối lộ [1]. Về vụ án trên, chúng tôi cho rằng:

- Về điều kiện thứ nhất, người phạm tội đã thực hiện hành vi thỏa mãn cấu thành tội đưa hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự (Điều 289): Hành vi đưa hối lộ (ba lượng vàng SJC và một triệu đồng) của ông G. cho ông H. để giúp đỡ giải quyết vụ việc theo hướng có lợi cho mình thỏa mãn cấu thành tội đưa hối lộ.

- Về điều kiện thứ hai, có bốn dấu hiệu - mặc dù chưa bị phát giác (I) và không bị bất kỳ ai ép buộc (II) nhưng người phạm tội đã chủ động khai báo, tự khai nhận về hành vi phạm tội của mình (III) và tố giác hành vi phạm tội của người có chức vụ, quyền hạn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền (IV). So sánh với nội dung vụ án cho thấy: Vụ án trên chưa bị phát giác (nếu ông G. không tố giác về việc nhận hối lộ của ông H. với Cơ quan điều tra thì vụ án này sẽ không bị phát hiện và xử lý được) - phù hợp dấu hiệu (I). Ngoài ra, ông G. sau khi nghe thẩm phán H. gợi ý về số tiền “bồi dưỡng” để giúp đỡ theo hướng có lợi cho mình nên đã đồng ý (thỏa mãn dấu hiệu không bị ai ép buộc) - phù hợp dấu hiệu (II). Đặc biệt, ông G. đã chủ động khai báo và tố giác hành vi phạm tội nhận hối lộ của ông H. trước cơ quan nhà nước

có thẩm quyền (Cơ quan Điều tra) và đã bị khởi tố và đưa ra xử lý nên chính vì vậy, - phù hợp các dấu hiệu (III) và (IV). Do đó, vì vụ án này, mặc dù thỏa mãn các dấu hiệu khác nhưng không có dấu hiệu “vì bị ép buộc...” nên đã loại trừ việc áp dụng quy định tại đoạn 1 khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự là: “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”; đồng thời chỉ dẫn việc xem xét có áp dụng quy định tại đoạn 2 khoản 6 Điều luật này: “Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”. Cho nên, từ đây vấn đề cần xem xét là đối với ông G. có thể được miễn trách nhiệm hình sự hay không mà thôi. Tuy nhiên, xử hay không xử (miễn trách nhiệm hình sự) trong các trường hợp này tùy thuộc vào sự đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng và sự đánh giá này phải dựa trên những quy định của pháp luật hình sự, đồng thời cần phải phân loại rõ mục đích (động cơ) đưa hối lộ của người phạm tội.

Như vậy, về vụ án này, động cơ (mục đích) tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ông Nguyễn Thanh G. là do ông Võ Trọng H. không làm theo yêu cầu của mình (kết quả không có lợi cho mình), nên ông G. đã đòi lại tiền và do không đòi được nên mới chủ động tố cáo trước khi bị phát giác. Như vậy, ở đây mục đích (động cơ) tố giác người nhận hối lộ (người có chức vụ, quyền hạn) trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ông G. không xuất phát từ sự ăn năn hối cải, từ sự tự nhận thức về hành vi sai trái vi phạm pháp luật của mình, từ tinh thần đấu tranh phòng, chống tội phạm của mỗi công dân trong xã hội, mà trái lại - xuất phát từ việc ông H. không làm theo yêu cầu của mình nên đòi lại tiền và không đòi được nên mới tố cáo. Cho nên, ông G. vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xét xử về tội đưa hối lộ nhưng có thể xem xét để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bốn là, còn bỏ lọt tội phạm về tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 291 Bộ luật hình sự) do chưa quy định dấu hiệu định tội - “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”.

Ví dụ: Năm 2010, Nguyễn Thu H. (làm nghề cắt tóc gội đầu ở quán Mây Trắng) ở TP Hồ Chí Minh, do quen ông Nguyễn Văn T. (làm Trưởng Phòng của một Sở) nên đã cặp bồ với nhau. Lợi dụng quan hệ này, H. đã dùng ảnh hưởng của mình tác động ông T. để ông T. nhận người quen là Nguyễn Hùng D. vào làm hợp đồng vụ việc tại Sở, H. đã nhận của D. số tiền là

1.500.000 đồng. Tuy nhiên, khi phát hiện, H. chỉ bị xử lý hành chính, sau đó,

H. lại tiếp tục nhận của D. 1.800.000 đồng nữa và bị phát hiện. Tuy nhiên, không thể xử lý hình sự Nguyễn Thu H. được vì H. không phải là người có chức vụ, quyền hạn, không phải là cán bộ, công chức, cũng không gây ra hậu quả nghiêm trọng gì, mặc dù Điều 291 Bộ luật hình sự quy định “nếu dưới hai triệu đồng” thì phải “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” mà chưa quy định “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”; v.v... nên đã bỏ lọt tội phạm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

* Một số tồn tại, hạn chế trong Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật

Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác, bảo đảm xét xử nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật các bị cáo phạm tội trong Mục B - Các tội phạm khác về chức vụ trong Chương XXI Bộ luật hình sự, thì trong các quy định của Bộ luật hình sự và một số văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật cũng có một số tồn tại, hạn chế sau đây:

Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 13

Một là, toàn bộ Chương XXI - Các tội phạm về chức vụ nói chung, Mục B - Các tội phạm khác về chức vụ nói riêng đều chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, chưa bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cụ thể là:

- Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285 Bộ luật hình sự). Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1; “gây hậu quả nghiêm trọng” và “gây hậu quả rất nghiêm trọng” trong khoản 2. Ngoài ra, khoản 2 Điều luật cũng quy định chung mức hình phạt tù từ ba năm đến mười hai năm tù đối với hành vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là chưa hợp lý.

- Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (Điều 286 Bộ luật hình sự): Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1 Điều luật này.

- Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287 Bộ luật hình sự): Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1 Điều này.

- Tội đào nhiệm (Điều 288 Bộ luật hình sự): Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1 Điều này.

- Đối với tội đưa hối lộ (Điều 289) và tội làm môi giới hối lộ (Điều 290 Bộ luật hình sự): Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1; “gây hậu quả nghiêm trọng khác” trong điểm e khoản 2 và “gây hậu quả rất nghiêm trọng khác” trong điểm b khoản 3 và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” trong điểm b khoản 4 của hai Điều luật này.

- Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 291 Bộ luật hình sự): Hiện nay, cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong khoản 1; “gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác” trong điểm c khoản 2 của Điều luật này.

Hai là, tội đưa hối lộ (Điều 289) và tội làm môi giới hối lộ (Điều 290 Bộ luật hình sự) cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 vì chúng ta đã tham gia Công ước này ngày 09/12/2003 [18]. Hơn nữa, Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 đặc biệt chú trọng vấn đề hình sự hóa những hành vi - hối lộ công chức quốc gia; hối lộ công chức nước ngoài hoặc của tổ chức quốc tế công; hối lộ trong khu vực tư và việc đồng phạm, nỗ lực thực hiện những hành vi trên. Như vậy, sự đồng lòng của cộng đồng quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm hối lộ (bao gồm cả nhận hối lộ, đưa hối lộ và làm môi giới hối lộ) cho thấy đây là một nhiệm vụ có tính chất cấp thiết không chỉ trong phạm vi quốc gia mà có tính chất toàn cầu. Vì vậy, về các tội phạm khác về chức vụ, có hai tội cần sửa đổi tội đưa hối lộ và tội làm môi giới hối lộ để dự báo tình hình tội phạm và bao quát xử lý trong thời gian tới ở nước ta, cụ thể như sau:

- Về mô tả hành vi phạm tội: Theo đó, hành vi đưa hối lộ chỉ được gọi tên tại Điều 289: “Người nào đưa hối lộ…”. Như vậy, hành vi ở đây chỉ gồm có hành vi “đưa” của hối lộ (tức là “cho” của hối lộ) chứ chưa bao gồm các hành vi “gợi ý đưa”, “hứa đưa” của hối lộ. Hành vi đưa của hối lộ đó có thể được thực hiện dưới bất kể hình thức nào, có thể do người đưa hối lộ trực tiếp đưa hoặc đưa qua người làm môi giới, có thể đưa trao tay có thể gửi qua các dịch vụ chuyển gửi; v.v… Theo quy định này, tội đưa hối lộ chỉ cấu thành khi người đưa hối lộ đó có hành vi đưa “của hối lộ”. Điều đó thể hiện sự không thống nhất với Điều 279 Bộ luật hình sự về tội nhận hối lộ. Nhận hối lộ được xác định là hành vi “đã nhận hoặc sẽ nhận” của hối lộ. Lẽ ra, tương ứng với nó thì hành vi đưa hối lộ cũng phải gồm cả việc đưa và hứa hẹn đưa của hối lộ mới nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm hối lộ, vì hành vi đưa và nhận hối lộ liên quan chặt chẽ và mật thiết với nhau. Đặc biệt,

Công ước đã ghi nhận đầy đủ và chi tiết hành vi đưa hối lộ một cách cụ thể và riêng biệt với hành vi nhận hối lộ. Theo các điểm a Điều 15, 16 và 21 đó trích dẫn trên thì khái niệm chung về hành vi đưa hối lộ là: Hứa hẹn, chào mời hay cho, trực tiếp hay gián tiếp, người có chức vụ (trong lĩnh vực công hoặc tư, của quốc gia, của nước ngoài hoặc quốc tế) bất kỳ một lợi ích không chính đáng cho chính bản thân người có chức vụ ấy hay cho một người hoặc một tổ chức khác, để người có chức vụ này làm hoặc không làm một việc trong quá trình thi hành công vụ. Do đó, cần mô tả cụ thể hơn đối với hành vi đưa hối lộ trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Tương ứng như vậy, cũng cần mô tả rõ hành vi làm môi giới hối lộ.

- Về đối tượng hối lộ, Bộ luật hình sự và Công ước có cách nhìn nhận không giống nhau [60]: Theo đó, Bộ luật hình sự quy định đối tượng được hối lộ là các cán bộ, công chức của Nhà nước hay nhưng người khác được giao thực hiện công vụ, đại diện cho quyền lực công. Điều này có nghĩa, đối tượng hối lộ gồm những người có quyền hạn, ảnh hưởng nhất định trong lĩnh vực công quyền của quốc gia. Trong khi đó, các Điều 15, 16, 21 của Công ước thể hiện đối tượng được hối lộ gồm: công chức quốc gia; công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công; người điều hành hay làm việc, ở bất kỳ cương vị nào, cho tổ chức thuộc khu vực tư. Tương tự, Công ước đó xác định đối tượng được hối lộ là những người có chức vụ, quyền hạn ở cả khu vực công (của quốc gia, của nước ngoài, của tổ chức quốc tế) và khu vực tư.

- Về người được hưởng lợi từ việc hối lộ: Bộ luật hình sự không quy định cụ thể, còn Công ước xác định rất rõ ràng lợi ích không chính đáng - “của hối lộ” là “cho chính bản thân công chức ấy hay cho một người hoặc một tổ chức khác” (Điều 15, 16) “vì lợi ích của chính người đó (người có chức vụ, quyền hạn trong tổ chức tư) hay của người hoặc tổ chức khác” (Điều 21). Theo mô tả này người hưởng “lợi ích không chính đáng” với tư cách của

hối lộ có thể là chính người được hối lộ, cũng có thể là người khác, tổ chức khác. Hành vi đưa hối lộ được cấu thành cho dù người hưởng lợi là chính người được hối lộ hay người khác. Tương ứng với đó, công việc mà người được hối lộ thực hiện theo yêu cầu của người đưa hối lộ có thể vì lợi ích của chính người đưa hối lộ hoặc vì lợi ích của người khác, tổ chức khác.

Ba là, tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi quy định chủ thể thường (bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự), nhưng lại chỉ quy định “nếu dưới hai triệu đồng” thì phải “gây hậu quả nghiêm trọng”, “đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm” mà không quy định “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”; v.v... nên đã bỏ lọt tội phạm, cho nên, cần quy định thêm dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” cho đầy đủ và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Do đó, những vấn đề này cần nghiên cứu, tiếp thu những điểm hợp lý khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự hiện hành về các tội phạm khác về chức vụ.

* Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế trong xét xử và trong lập pháp hình sự đối với các tội phạm khác về chức vụ

Như vậy, từ những hạn chế, tồn tại dưới góc độ thực tiễn xét xử và trên bình diện lập pháp hình sự là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:

Một là, do các quy định của Bộ luật hình sự nói chung và về một số tội phạm cụ thể về các tội phạm khác về chức vụ nói riêng còn một số thiếu sót, vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện và bảo đảm yêu cầu hội nhập quốc tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với Định hướng sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự trong Đề cương sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự ngày 24/9/2012 của Ban Soạn thảo sửa đổi Bộ luật hình sự: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm về chức vụ, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động

của bộ máy nhà nước nói chung cũng như các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án nói riêng trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

Hai là, sự hướng dẫn, giải thích pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao còn chưa đầy đủ, kịp thời. Trong những năm gần đây, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra nhiều Nghị quyết hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, Viện Khoa học xét xử thuộc Tòa án nhân dân tối cao cũng có nhiều văn bản hướng dẫn, giải đáp những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn của các Tòa án địa phương. Tuy nhiên, như đã đề cập, còn nhiều nội dung trong Mục B - Các tội phạm khác về chức vụ cần được các nhà làm luật Việt Nam hướng dẫn kịp thời, qua đó bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm khác về chức vụ. Ví dụ: chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” trong các tội phạm nêu trên.

Ba là, ngoài ra, hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nói chung, của Tòa án thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn thiếu về số lượng, một số cán bộ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là kiến thức về các tội phạm khác về chức vụ còn chưa tốt. Chẳng hạn, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là loại tội có thể phát sinh trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều ngành nghề, phải cập nhật nhiều loại văn bản khác nhau hoặc; để chứng minh tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi không phải lúc nào cũng dễ dàng.

Bốn là, sự thay đổi của các văn bản pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức, đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, quản lý kinh tế, tài sản, đầu tư, diễn biến quá trình tội phạm hóa - phi tội phạm hóa, hình sự hóa - phi hình sự hóa trong đời sống cũng tác động không nhỏ đến việc cần sửa

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/02/2023