Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ bản quyết định sự thành bại của thị trường do vậy lợi nhuận phản ánh hiệu quả của nền kinh tế. Trong đó ngân hàng với các chức năng đặc biệt của mình có ảnh hưởng lớn đến các hoạt động trong nền kinh tế. Vì thế lợi nhuận của các ngân hàng cũng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội.
Tỷ suất sinh lợi cao là điều kiện tài chính để ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ đóng góp của mình. Thông qua các sắc thuế, một phần lợi nhuận sẽ được chuyển vào ngân sách nhà nước. Các khoản đóng góp này sẽ góp phần thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế quốc dân, củng cố năng lực quốc phòng, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần văn hóa, tinh thần cho nhân dân, nền kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh, tài chính, đầu tư cho doanh nghiệp. Từ đó doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi và điều đó có tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Việc tăng tỷ suất sinh lợi sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Bởi vì nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào tích lũy, quy mô của tích lũy quyết định quy mô tăng trưởng. Doanh nghiệp muốn tăng trưởng nhanh thì phải làm ăn đạt lợi nhuận cao, có được lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ tăng được quy mô tích lũy, một khi đã có tích lũy lớn thì doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, đây là tiền đề thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nền kinh tế tăng trưởng sẽ tác động trở lại doanh nghiệp, tạo ra môi trường thuận lợi và động lực cho doanh nghiệp phát triển.
Đối với những cá nhân, doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng như doanh nghiệp, nhà đầu tư, … nếu ngân hàng hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận và tăng được tỷ suất sinh lợi thì dễ dàng thu hút vốn của các nhà đầu tư, các hoạt động cho vay cũng được nhiều hơn. Kinh doanh hiệu quả đạt tỷ suất sinh lợi cao tạo điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Vì vậy việc đánh giá tỷ suất sinh lợi của NHTMCPNY là một việc hết sức cần thiết, nó giúp cho các nhà quản trị, nhà đầu tư và người có liên quan hiểu rõ hơn về nguồn thu nhập của tổ chức mình quan tâm từ đó có những quyết định phù hợp với vị trí của mỗi người.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi các NHTMCPNY
Đối với các ngân hàng, hầu như phần vốn chủ sở hữu và tài sản thường ít thay đổi. Vì thế, khi nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi, tác giả nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
1.2.1. Nhân tố vi mô
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết Việt Nam - Phan Thu Hương - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết Việt Nam - Phan Thu Hương - 2
- Nghiên Cứu Trước Đây Về Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Ngân Hàng Thương Mại
- Tóm Tắt Ký Hiệu Các Biến Và Tương Quan Kỳ Vọng
- Thực Trạng Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Niêm Yết Việt Nam
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
1.2.1.1. Thu nhập của ngân hàng
Sự thay đổi của thu nhập có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận. Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, thu nhập ngân hàng sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng gia tăng hoặc ngược lại. Vì vậy, để tăng lợi nhuận của ngân hàng điều đầu tiên cần làm là tăng các nguồn thu nhập của ngân hàng. Ba nguồn thu nhập chính của ngân hàng bao gồm: thu nhập từ hoạt động tín dụng, thu nhập từ hoạt động thanh toán và ngân quỹ và thu nhập từ các hoạt động khác như thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần, thu từ mua bán chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, thu nhập từ ủy thác, đại lý, …
Đối với nguồn thu nhập từ hoạt động tín dụng, để gia tăng khoản thu nhập này các ngân hàng cần phải mở rộng hoạt động tín dụng, đẩy mạnh các hoạt động cho thuê tài chính. Thu nhập từ hoạt động thanh toán và ngân quỹ sẽ gia tăng bằng các nguồn như thu phí dịch vụ thanh toán, dịch vụ ngân quỹ, thu lãi các khoản tiền gửi, các ngân hàng cần xây dựng một mạng lưới rộng khắp, cung cấp các phương thức thanh toán hiện đại để tạo sự thuận lợi cho khách hàng sẽ mở rộng nguồn khách hàng. Đối với các hoạt động khác: điều cần làm để gia tăng thu nhập là cần quản lý tốt các khoản góp vốn, mua cổ phần, quản lý các danh mục đầu tư chứng khoán hiệu quả, thực hiện các biên pháp phòng ngừa để tối thiểu hóa rủi ro, tăng cường quan hệ hợp tác với các ngân hàng khác nhau trong và ngoài nước và cần xây dựng đội ngũ nhân sự giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
1.2.1.2. Chi phí của ngân hàng
Chi phí là khoản mục ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Chi phí nếu tăng quá cao sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Do vậy, cần có những biện pháp quản lý chi phí hiệu quả giúp gia tăng hơn nữa lợi nhuận ngân hàng. Chi phí
ngân hàng bao gồm các thành phần chính như: chi phí về hoạt động huy động vốn bao gồm: chi trả lãi tiền gửi, chi trả lãi tiết kiệm, chi trả lãi tiền vay và các khoản kỳ phiếu, trái phiếu; chi phí về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ; chi phí các hoạt động khác; chi nộp thuế, các khoản phí, lệ phí; chi cho nhân viên …
Để cắt giảm chi phí hoạt động huy động vốn, các ngân hàng cần tính một mức lãi suất hợp lý thỏa mãn nhu cầu của khách hàng gửi tiền, khách hàng mua kỳ phiếu, trái phiếu. Đối với dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, các ngân hàng nên có thực hiện sự hợp tác với tất cả các ngân hàng trong ngành. Tinh giảm đội ngũ nhân viên để cắt giảm các chi phí cho nhân viên. Tuy nhiên, việc cắt giảm các khoản chi phí cần thực hiện một cách hợp lý nếu không lại có tác dụng ngược với lợi nhuận. Ví dụ trong trường hợp cắt giảm quá mức số lượng nhân viên, khiến số lượng nhân viên đang làm việc chịu áp lực công việc lớn, sẽ làm giảm hiệu quả công việc, giảm giá trị sản phẩm lao động, góp phần gián tiếp giảm lợi nhuận ngân hàng.
1.2.1.3. Quy mô của ngân hàng
Quy mô ngân hàng thường được thể hiện thông qua quy mô tổng tài sản ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu. Ngân hàng có quy mô lớn thường sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Những ngân hàng có quy mô lớn thường sẽ dễ dàng đáp ứng các yêu cầu về vốn theo quy định của Nhà nước hay các quy định của các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước. Ngân hàng cũng có nguồn tài trợ để đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh, mở các chi nhánh giao dịch rộng khắp cũng như ứng dụng những phần mềm công nghệ mới. Chính vì thế, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều nguồn khách hàng trong và ngoài nước đến mở tài khoản cũng như giao dịch. Các tài khoản này sẽ cung cấp cho ngân hàng một lượng lớn tiền gửi thanh toán (với chi phí thấp) góp phần tăng khả năng thanh khoản, đồng thời giảm chi phí huy động vốn. Ngân hàng có quy mô lớn thường được hưởng một lợi thế so sánh khác như có thể thu hút được nhiều khoản đầu tư, vay với chi phí thấp hơn.
Trong khi đó, những ngân hàng có quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp sẽ khó có khả năng mở rộng cũng như đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, do đó lợi nhuận thấp, tăng trưởng chậm hơn.
Tuy nhiên, những ngân hàng lớn cũng gặp những rủi ro như hoạt động không hiệu quả sẽ làm tăng chi phí hoạt động, quản lý và kiểm soát trở nên khó khăn hơn. Cũng như chịu nhiều áp lực hơn từ những chính sách của nhà nước, nếu những chính sách đó có ảnh hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng. Việc gia tăng quy mô ngân hàng nên phù hợp với đặc điểm ngân hàng, khả năng quản trị cũng như chiến lược phát triển của ngân hàng.
1.2.1.4. Chiến lược kinh doanh và phát triển của ngân hàng
Chiến lược kinh doanh đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ tạo một hướng đi tốt cho ngân hàng, là kim chỉ nam dẫn đường cho các hoạt động đi đúng hướng. Ngân hàng nắm bắt được các cơ hội cũng như đầy đủ các nguy cơ đối với sự phát triển nguồn lực của doanh nghiệp. Nó cũng giúp ngân hàng khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực, phát huy sức mạnh riêng có của ngân hàng. Chiến lược tạo ra một quỹ đạo hoạt động cho ngân hàng, giúp ngân hàng liên kết được các cá nhân với các lợi ích khác cùng hướng tới mục đích chung là sự phát triển của ngân hàng. Qua đó tăng cường và nâng cao hơn nữa nội lực của ngân hàng.
Hơn nữa, chiến lược kinh doanh là công cụ cạnh tranh có hiệu quả của ngân hàng. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế hiện nay đã tạo nên sự ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp sử dụng chiến lược kinh doanh như một công cụ cạnh tranh có hiệu quả.
1.2.1.5. Chính sách kinh doanh của ngân hàng
Chính sách bao gồm những nguyên tắc chỉ đạo, các hướng dẫn, quy tắc và thủ tục được thiết lập nhằm hỗ trợ và thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu đã định. Như vậy, chính sách kinh doanh là công cụ để triển khai chiến lược thành các kế hoạch cụ thể. Để làm được điều đó chính sách kinh doanh trong mỗi thời kỳ phải đáp ứng các
yêu cầu cụ thể như: Đảm bảo phù hợp với chiến lược và phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược, chính sách phải cụ thể, rõ ràng, đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động quản trị. Chính sách phải bao quát được tất cả các lĩnh vực cơ bản nhất. Một số chính sách quan trọng trong ngân hàng như là chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối, chính sách xúc tiến hỗn hợp, chính sách con người.
1.2.1.6. Chính sách sản phẩm (dịch vụ)
Sản phẩm (dịch vụ) ngân hàng là những hoạt động, quá trình được cung ứng bởi ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng mục tiêu. Chính sách sản phẩm là những quy tắc nhằm xây dựng những sản phẩm mới hoặc cải tiến những sản phẩm hiện có với mục tiêu thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nâng cao vị thế hình ảnh của ngân hàng, tạo sự khác biệt của sản phẩm dịch vị ngân hàng cũng như tăng số lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng.
Các sản phẩm do ngân hàng cung cấp được chia thành 5 cấp độ như: sản phẩm cơ bản, sản phẩm thực và sản phẩm gia tăng, sản phẩm kỳ vọng và sản phẩm tiềm năng. Trong đó, sản phẩm cơ bản nhất của NHTM đó là tín dụng. Bởi vì đây là hoạt động tạo nguồn thu của yếu của các NHTM. Chính sách tín dụng bao gồm các quan điểm, chủ trương, định hướng, quy định chủ đạo hoạt động tín dụng và đầu tư của NHTM. Chính sách tín dụng tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng, hướng dẫn cho cán bộ tín dụng. Để có thể đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro, phát triển bền vững hoạt động tín dụng thì cần thiết phải xây dựng một chính sách tín dụng nhất quán và hợp lý, thích ứng môi trường kinh doanh, phù hợp với đặc điểm của NHTM, phát huy được các thế mạnh, khắc phục và hạn chế các điểm yếu nhằm mục tiêu an toàn và sinh lợi.
Một số điểm hạn chế của các ngân hàng trong hoạt động tín dụng như: chưa xác định phân khúc khách hàng chiến lược, tăng trưởng tín dụng nhưng chưa đi kèm với quản trị rủi ro tín dụng, chính sách lãi suất cho vay còn cứng nhắc, lãi suất cho vay hầu như giống nhau ở tất cả các khoản vay, việc tổ chức, hạch toán, phân loại nợ, thống kê tín dụng còn chưa đảm bảo chính xác, minh bạch làm cơ sở cho quản lý tín dụng có hiệu quả, việc tổ chức, hoạt động thông tin phục vụ hoạt động tín dụng
còn hạn chế, năng lực cán bộ tín dụng còn yếu, khả năng quan hệ khách hàng và chăm sóc khách hàng chưa bài bản, chuyên nghiệp. Những vấn đề này nếu có tồn tại sẽ làm giảm các nguồn thu của ngân hàng.
Chính sách sản phẩm có vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng có chính sách sản phẩm đa dạng, nhanh chóng, thuận tiên sẽ đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, nâng cao hình ảnh của ngân hàng góp phần làm gia tăng lợi nhuận ngân hàng.
1.2.1.7. Chính sách giá
Giá của sản phầm dịch vụ ngân hàng là số tiền mà khách hàng phải trả để được quyền sử dụng một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định hoặc sử dụng sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Giá sản phẩm được thể hiện dưới ba hình thức: lãi suất, phí, hoa hồng.
Sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mang tính tổng hợp nên rất khó xác định chi phí và giá trị đối với từng sản phẩm, dịch vụ riêng biệt. Do đó, giá của sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có tính đa dạng và phức tạp. Nó chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như: chi phí (các nguồn lực) ngân hàng phải bỏ ra để duy trì hoạt động và cung cấp các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, đặc điểm tình hình kinh tế vĩ mô như quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường, các chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá của NHTW và đặc điểm nhu cầu của khách hàng.
Định giá sản phẩm dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của ngân hàng và khách hàng. Nên việc định giá hợp lý tạo nguồn lợi nhuận cho ngân hàng và thu hút khách hàng là rất quan trọng.
1.2.1.8. Chính sách phân phối
Kênh phân phối là công cụ trực tiếp đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Đối với hệ thống phân phối sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, phân phối trực tiếp là chủ yếu và được thực hiện trên phạm vị rộng, phong phú và đa dạng. Có 2 kênh phân phối chủ yếu đó là: kênh phân phối truyền thống như chi nhánh, đại lý ngân hàng; kênh phân phối hiện đại như ngân hàng điện tử, chi nhánh tự động, chi nhánh ít nhân viên. Việc sử dụng 1 hoặc nhiều kênh phân phối hoặc kết
hợp cả hệ thống kênh truyền thống và hiện đại là tùy thuộc vào năng lực tài chính cũng như chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng. Kênh phân phối có tác dụng truyền dẫn, đưa sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Do vậy kênh phân phối giúp ngân hàng mở rộng thị trường, tăng doanh số hoạt động cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh, hạ thấp chi phí.
1.2.1.9. Chính sách xúc tiến - truyền thông
Với vai trò nhằm khuyến khích việc sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, đồng thời làm tăng mức độ trung thành của khách hàng hiện tại và thu hút khách hàng tương lai, các chính sách xúc tiến - truyền thông là một công cụ marketing quan trọng mà các ngân hàng thường dùng để tác động vào thị trường. Đặc biệt các hoạt động marketing này còn giúp ngân hàng gia tăng hình ảnh thương hiệu đối với các khách hàng.
1.2.1.10. Chính sách nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một ngân hàng là tập hợp những người lao động làm việc trong ngân hàng đó. Bao gồm các cá nhân với trí lực và thể lực khác nhau, cùng liên kết với nhau theo những mục tiêu chung. Đây là nhân tố chủ yếu để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nguồn nhân lực đảm bảo mọi nguồn sáng tạo trong tổ chức. Bởi vì chỉ có con người mới sáng tạo ra các hàng hóa, dịch vụ và kiểm tra được quá trình sản xuất kinh doanh đó. Mặc dù trang thiết bị, tài sản, nguồn tài chính là những nguồn tài nguyên mà các tổ chức đều cần phải có, những trong đó, tài nguyên con người lại đặc biệt quan trọng. Không có những con người làm việc hiệu quả thì tổ chức đó không thể nào đạt được tới mục tiêu. Với tính năng động, sáng tạo và hoạt động trí óc của con người, nguồn nhân lực ngày càng trở thành nguồn lực mang tính chiến lược.
Chất lượng nguồn nhân lực tốt cũng gia tăng lợi thế cạnh tranh của ngân hàng. Chất lượng nguồn nhân lực thể hiện ở các điểm như: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (thể hiện qua các bằng cấp chuyên môn đạt được, các thành tích trong quá trình công tác…), mức độ thành thạo các kỹ năng, nghiệp vụ bổ trợ, khả năng tự học hỏi của đội ngũ cán bộ nhân viên. Chính vì thế, các ngân hàng cần có những chính
sách tuyển dụng, chính sách đào tạo, chính sách lương, chính sách đề bạt để thu hút được nguồn nhân tài, nâng cao năng suất lao động, góp phần làm gia tăng giá trị ngân hàng.
1.2.1.11. Chất lượng tài sản
Chất lượng tài sản là chỉ tiêu tổng hợp nói lên chất lượng quản lý, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của một ngân hàng. Nâng cao chất lượng tài sản là là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng hoạt động an toàn. Nội dung hoạt động chủ yếu của ngân hàng ở phía tài sản có. Trong đó tập trung chủ yếu ở tài sản có sinh lời. Chất lượng tài sản trước hết được phản ánh ở chất lượng hoạt động tín dụng. Được thể hiện qua các chỉ số: tỷ lệ giữa nợ quá hạn so với tổng dư nợ, tỷ lệ giữa tổn thất nợ ròng so với tổng dư nợ, tỷ lệ giữa dự phòng phải thu khó đòi so với tổng tổn thất ròng và tổng dư nợ. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản còn thể hiện ở cơ cấu trạng thái ngoại hối, chất lượng và trạng thái của danh mục đầu tư. Do đó, để đánh giá chất lượng tài sản và mức độ hoạt động của một ngân hàng cần xem xét đầy đủ toàn diện cơ cấu, tính chất tài sản, mối tương quan giữa tài sản có và tài sản nợ.
1.2.1.12. Khả năng thanh toán của ngân hàng
Khả năng thanh toán của ngân hàng là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá chất lượng và sự an toàn trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Để đảm bảo khả năng thanh toán, ngân hàng phải duy trì được một khối lượng tài sản dưới tính lỏng, đặc biệt các tài sản có tính thanh khoản cao như tiền mặt, tiền gửi ở NHTW và các công cụ dự trữ thanh toán khác. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần chú trọng nâng cao chất lượng tài sản có, xây dựng danh mục tài sản hợp lý, có khả năng chuyển hóa thành tiền nhanh chóng và thu hồi nợ đúng hạn để đáp ứng yêu cầu chi trả cho khách hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ cam kết.
Thực tế cho thấy, những ngân hàng thiếu hụt khả năng thanh toán là những ngân hàng đang gặp khó khăn, rất dễ rơi vào nguy cơ bị ồ ạt rút tiền của công chúng, nghiêm trọng hơn có thể làm sụp đổ ngân hàng và tác động xấu đến hệ thống. Chính