Giải Pháp Nâng Cao Khả Năng Tham Gia Góp Vốn Của Nhà Đầu Tư Nước Ngoài


CHƯƠNG 5. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THAM GIA GÓP VỐN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

VÀO CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM

5.1. Định hướng phát triển chung cho ngành ngân hàng Việt Nam của Chính phủ giai đoạn 2018-2025

Trên tinh thần Quyết định 986/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 08/08/2018 thì chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 có một số vấn đề cơ bản như sau:

Giai đoạn 2018-2020: Cơ cấu lại hệ thống các TCTD với mục tiêu trọng tâm là xử lý triệt để vấn đề nợ xấu và các TCTD yếu kém để có được một hệ thống tín dụng hoạt động lành mạnh. Nâng cao năng lực quản trị của các TCTD, từng bước xóa bỏ tình trạng đầu tư chéo, sở hữu chéo. Phấn đấu để đạt được các mục tiêu trong năm 2020 là:

- Tất cả các ngân hàng thương mại cơ bản đạt được mức vốn tự có theo chuẩn mực Basel II, có ít nhất 12 đến 15 ngân hàng áp dụng thành công Basel II phương pháp tiêu chuẩn trở lên, có một đến hai ngân hàng nằm trong tốp 100 ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất khu vực châu Á.

- Đưa tỷ lệ nợ xấu xuống dưới 3% (Nợ xấu nội bảng, nợ xấu đã bán cho VAMC, nợ xấu đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ).

Giai đoạn 2021-2025: Nâng cao năng lực cạnh tranh, tính minh bạch; tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế về quản trị và hoạt động của các TCTD. Phấn đấu để đạt được các mục tiêu trong năm 2025 là:

- Có ít nhất hai đến ba ngân hàng nằm trong tốp 100 ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất khu vực châu Á, có ba đến năm ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước ngoài.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 86 trang tài liệu này.


- Tất cả các ngân hàng thương mại áp dụng thành công Basel II phương pháp tiêu chuẩn, triển khai áp dụng Basel II phương pháp nâng cao tại một số ngân hàng thí điểm.

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 8

- Nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ trên tổng thu nhập của các ngân hàng lên khoảng 16% đến 17%.

- Tiếp tục đưa nợ xấu trong hệ thống các TCTD ở mức dưới 3%.


5.2. Định hướng chiến lược thu hút nhà đầu tư nước ngoài của Chính phủ giai đoạn 2018-2030

Đánh giá cao vai trò cùng những đóng góp của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua trong việc bổ sung nguồn vốn phát triển kinh tế - xã hội, tăng nguồn thu cho ngân sách, tạo việc làm, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, quản trị rủi ro, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,… cũng như nhìn nhận, đánh giá lại những khó khăn, hạn chế còn tồn tại của khu vực này. Chính phủ đã và đang phối hợp với các lãnh đạo Bộ, Ngành liên quan chuẩn bị triển khai chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2018-2030.

Theo tinh thần của dự thảo chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài này, một số mục tiêu được xây dựng cho giai đoạn 2018-2030 như sau:

- Xác định những ngành cần được ưu tiên để có sự chủ động xúc tiến đầu tư nhằm đạt được giá trị cao nhất.

- Nâng cao năng lực nội tại, để NĐTNN muốn đầu tư vì nước ta có kỹ năng nghề, nguồn lực hiệu quả, vị trí tốt trong cộng đồng ASEAN chứ không phải vì nước ta có chi phí nhân công, dịch vụ thấp hoặc chỉ để họ phân tán rủi ro.

- Chú trọng tìm kiếm các nhà đầu tư trong dài hạn (Nhà đầu tư chiến lược) từ các nước phát triển hàng đầu thế giới, các tập đoàn xuyên quốc gia với nguồn công nghệ tiên tiến, năng lực quản trị cao.

- Tránh tiếp nhận các dự án lạc hậu về công nghệ, không thân thiện với môi trường. Nghĩa là có sự chọn lọc nhà đầu tư trên cơ sở xem xét đến các vấn đề bảo vệ môi trường, người lao động và các lợi ích xã hội của đất nước.


- Thực hiện các ưu đãi dựa trên hiệu quả của cơ sở giá trị gia tăng trong nước.

Với những chiến lược hướng đến, có thể nói, tương lai sẽ có nhiều thay đổi tích cực hơn nữa trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây là dấu hiệu khả quan cho các doanh nghiệp trong nước về việc tìm kiếm cho mình đối tác chiến lược để mở rộng quy mô vốn, công nghệ cũng như nâng cao trình độ, năng lực quản lý.

5.3. Giải pháp nâng cao khả năng tham gia góp vốn của NĐTNN vào các ngân hàng TMCP Việt Nam

Từ kết quả tìm được trong mô hình nghiên cứu ở Chương 4, tác giả xây dựng các giải pháp dựa trên hai nhân tố có tác động đến khả năng tham gia góp vốn của NĐTNN vào ngân hàng TMCP Việt Nam đó là Tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ trên tổng thu nhập hoạt động (SERVICE) và Số dư ròng liên ngân hàng trên tổng tài sản của ngân hàng (INTERBANK).

5.3.1. Giải pháp nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ


Từ thực tiễn cho thấy, đóng góp vào doanh thu của các ngân hàng thương mại phần lớn đến từ hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, song song đó hoạt động truyền thống này cũng đem đến những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng, điển hình là vấn đề nợ xấu – mối lo xuyên suốt trong quá trình hoạt động của các ngân hàng từ trước đến nay. Do đó, trong xu thế chung của quá trình hội nhập, cùng với định hướng của Chính phủ, nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng là hướng đi cần thiết. Một mặt, mang lại nguồn thu cho ngân hàng ngoài hoạt động tín dụng truyền thống, đồng thời cũng giảm rủi ro đến từ hoạt động truyền thống này. Mặt khác, đầu tư dịch vụ ngân hàng là vấn đề cấp thiết để đẩy nhanh tiến trình hội nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng nội địa, từ đó mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường quốc tế.

Thu nhập từ hoạt động dịch vụ của ngân hàng đến từ các hoạt động như: dịch vụ thanh toán (trong nước và quốc tế), dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ tư vấn, dịch vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo hiểm, … Thực tế cho thấy, giai đoạn


2012-2017 tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ có tăng lên trong hệ thống các ngân hàng TMCP qua các năm. Tuy nhiên, thu nhập này vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng (Xem Hình 4.1). Những nguyên nhân và giải pháp khắc phục đi cùng như sau:

Thứ nhất, theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Thủy (2017) về một số ngân hàng TMCP lớn tại Việt Nam, vấn đề mà khách hàng quan tâm nhiều nhất khi thực hiện giao dịch với các ngân hàng đó là các chi phí mà họ phải trả cho dịch vụ họ sử dụng, thủ tục/hồ sơ cần phải thực hiện hay các chính sách chăm sóc khách hàng hiện có tại ngân hàng. Nhưng những vấn đề này lại không làm khách hàng hài lòng nhiều, thậm chí là kém hài lòng với ngân hàng phục vụ họ. Từ đó có thể thấy, đa số ngân hàng vẫn chưa quan tâm đúng mức cần thiết trong việc đầu tư xây dựng các chính sách về phí/lãi suất sao cho mang tính cạnh tranh; quy trình thủ tục/hồ sơ nhanh chóng, tinh gọn nhất có thể, có nhiều sự lựa chọn về hồ sơ có thể thay thế, … mà đã quá tập trung xây dựng hình ảnh ngân hàng, điều này khó lòng giữ chân được khách hàng lâu dài. Điển hình như vấn đề thu các loại phí mà đáng ra khách hàng mặc nhiên được hưởng đã và đang diễn ra tại đa số ngân hàng gây nhiều tranh cải như phí kiểm đếm khi khách hàng không duy trì số dư trong tài khoản đủ hai ngày, phí vấn tin tài khản, phí in sao kê, phí nhận tin nhắn SMS hàng tháng, … Giải pháp ở đây chính là, ngân hàng cần nhìn nhận được vấn đề mà khách hàng quan tâm nhất là gì khi quyết định thực hiện giao dịch với ngân hàng và sâu hơn nữa là ý định muốn gắn bó dài lâu của họ. Để từ đó ưu tiên xây dựng và phát triển các chính sách cần thiết, đáp ứng được yêu cầu quan trọng của khách hàng. Sau đó mới phát triển thêm các khía cạnh khác, tiến tới hoàn thiện một cách tốt nhất hệ thống cung ứng các dịch vụ của ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn cần có định hướng mở rộng ra phạm vi quốc tế.

Thứ hai, sản phẩm dịch vụ ngân hàng mặc dù có đa dạng hơn so với giai đoạn trước nhưng chưa thật sự có trọng tâm; chiến dịch quảng cáo còn tràn lan, thiếu tập trung, chưa đáp ứng được tình hình hiện tại; điều phối, phối hợp chưa hiệu quả từ trụ sở đến các chi nhánh và giữa các chi nhánh với nhau. Thực tế cho thấy,


đa phần các sản phẩm dịch vụ từ các ngân hàng còn khá đơn điệu, thiếu chiều sâu, chất lượng chưa cao và vẫn còn mang tính truyền thống. Về mặt quảng cáo thì dường như nó chỉ dừng lại ở phía khách hàng chủ yếu là mức độ giới thiệu, chưa tạo được ấn tượng cũng như cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu cần thiết nên họ không thấy quan tâm, thậm chí cảm thấy ngán ngẫm vì quá tràn lan và gây nhiều phiền hà. Đặc biệt là ở các đô thị lớn, khi mà có quá nhiều chi nhánh ngân hàng, phòng giao dịch hoạt động trong cùng một hệ thống hoặc khác hệ thống. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng này về phương diện quảng cáo, giới thiệu, tư vấn thiếu trọng tâm cần thiết làm đa số tầng lớp dân cư, doanh nghiệp cảm thấy nhàm chán, thiếu sự quan tâm. Trong khi đó, ở các khu vực ít phát triển hơn thì vấn đề này lại thiếu sự đầu tư. Quá trình đưa vào vận hành các sản phẩm, dịch vụ mới còn thiếu sự đồng bộ giữa các chi nhánh, làm cho chất lượng dịch vụ không đồng đều. Giải pháp được đưa ra là, đầu tư xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ nhưng phải có trọng tâm, phù hợp nhu cầu thực tế; quảng cáo phải thật chỉnh chu và có chiều sâu, mang tính cung cấp thông tin về tiện ích nhiều hơn là chỉ dừng lại ở việc giới thiệu. Chú trọng công tác triển khai cho các sản phẩm, dịch vụ mới, đảm bảo được tất cả các chi nhánh đều vận hành đúng theo chiến lược ban đầu.

Thứ ba, quá trình phát triển công nghệ ngân hàng nhìn chung đã có sự cải thiện nhiều so với trước đây. Tuy nhiên để cạnh tranh được với các ngân hàng quốc tế thì hiện tại ta vẫn chưa thật sự đủ mạnh trong lĩnh vực này. Nhìn từ mặt bằng chung của các tầng lớp dân cư, xét thấy mức độ hiểu biết về các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại vẫn còn thấp, chưa đồng đều. Do đó, khi áp dụng công nghệ mới cho toàn hệ thống thì vẫn chưa khai thác hết giá trị vốn có của nó, gây nên sự lãng phí. Đó là chưa tính tới khả năng nếu thay đổi chiến lược công nghệ khi thấy công nghệ hiện có chưa thật sự mang lại hiệu quả thì lại càng lãng phí và tốn kém hơn. Bên cạnh đó, mức độ an toàn, bảo mật thông tin cũng chưa thật sự được đảm bảo. Giải pháp là, ngân hàng cần có sự đầu tư xây dựng chiến lược công nghệ ngân hàng trong dài hạn, và đặc biệt phải phù hợp với điều kiện thực tế, tránh đầu tư theo kiểu nóng vội, chưa xem xét đến các yếu tố nội tại từ phía ngân hàng và điều


kiện thực tế khác chi phối. Kiểm tra, bảo trì hệ thống định kỳ, đảm bảo tính ổn định của hệ thống.

Thứ tư, về chất lượng đội ngũ nhân sự. So với giai đoạn trước, vấn đề này có thể nói đã được cải thiện đi rất nhiều. Ngày nay, đa phần khi chúng ta đến các ngân hàng sẽ cảm thấy được sự chỉnh chu trong cách ăn mặc và cả sự niềm nở lẫn nhiệt tình của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên đó chỉ là mặt nỗi, vẫn còn đâu đó những tình huống bên lề khi mà áp lực doanh số đã khiến nhiều chuyên viên chỉ quan tâm tiếp cận khách hàng để bán được sản phẩm chứ chưa cung cấp cho họ đầy đủ thông tin cần thiết, khi có vấn đề xảy ra sẽ làm mất đi uy tín của ngân hàng, điều này ảnh hưởng rất lớn khi mà khách hàng có rất nhiều sự lựa chọn khác từ các đối thủ cạnh tranh. Và cũng còn đâu đó những cán bộ thiếu đạo đức nghề nghiệp, thực hiện các hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản khách hàng,… Do đó, giải pháp ở đây chính là, quan tâm đào tạo, phát triển chất lượng nguồn nhân lực, từ tác phong, trình độ đến đạo đức nghề nghiệp.

Thứ năm, vấn đề lấy ý kiến khách hàng. Thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng vẫn chưa nhìn nhận và đánh giá đúng sự kỳ vọng của khách hàng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng nên chưa có bước cải thiện và phát triển đúng đắn. Thừa nhận rằng nhiều ngân hàng vẫn có động thái phát phiếu khảo sát khách hàng trực tiếp hay khảo sát lấy ý kiến khách hàng trên website và qua email. Tất cả điều này vẫn chưa thể nói lên hết sự kỳ vọng thật sự của khách hàng. Bởi lẽ, hiệu quả nó mang lại không cao do nhiều khách hàng tỏ ra bận rộn, không có hứng thú để hoàn thành một bài khảo sát hoàn chỉnh, hoặc nếu có thì chỉ làm một cách qua loa, không phản ánh đúng kỳ vọng của họ. Chưa kể đến việc nhân viên ngân hàng thiếu sự quan tâm cho vấn đề khảo sát, xem đây là không cần thiết nên chỉ tập trung cho các công việc chính. Giải pháp khắc phục là, ngân hàng cần nhìn nhận việc khảo sát lấy ý kiến khách hàng là vấn đề quan trọng, cần có sự đầu tư xây dựng quy trình khảo sát, mẫu khảo sát một cách nghiêm túc. Đồng thời, đi kèm với khâu khảo sát là những phần quà hay chương trình ưu đãi cho khách hàng khi họ hoàn thành bài khảo sát một cách hoàn chỉnh.


5.3.2. Giải pháp phát triển hoạt động trên thị trường liên ngân hàng


Đi vào hoạt động từ năm 1992, một hành trình gần 30 năm với những bước đổi mới và phát triển nhất định. Thị trường liên ngân hàng Việt Nam đã cho thấy vai trò đóng góp tích cực vào quá trình hoạt động của các TCTD cũng như quá trình hoàn thiện và phát triển của thị trường tiền tệ trong nước. Tuy nhiên, so với một số nước trên thế giới thì thị trường liên ngân hàng nước ta cũng còn tồn tại những hạn chế và yếu kém nhất định cần có sự cải thiện trong tương lai mới có thể phát huy một cách tốt vai trò của thị trường này.

Một là, như đã phân tích qua ở phần 4.3.1 của nghiên cứu, đa phần những ngân hàng lớn, hoạt động hiệu quả mới tiếp cận được nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng. Mặt khác, những ngân hàng lớn là những ngân hàng tập trung chủ yếu vốn Nhà nước, hạch toán phụ thuộc với nhau do đó dù có nhiều hoạt động gửi hoặc cho vay vốn lẫn nhau diễn ra thì cũng không phát huy hiệu quả vốn có của thị trường liên ngân hàng đối với thị trường tiền tệ quốc gia. Giải pháp ở đây là, cơ cấu lại các ngân hàng TMCP hiện đang được Nhà nước nắm giữ tỷ lệ lớn vốn sở hữu. Khi các ngân hàng giảm dần sự khác biệt trong cơ cấu cổ đông sở hữu thì các giao dịch liên ngân hàng mới mang lại ý nghĩa thật sự.

Hai là, các ngân hàng tham gia trên thị trường này chủ yếu là do dư thừa vốn (mà đa phần tình trạng này chỉ diễn ra ở những ngân hàng lớn) hoặc để giải quyết nhu cầu vốn tạm thời (đa phần đối với các ngân hàng nhỏ hơn), đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống, chưa quan tâm nhiều đến việc kinh doanh kiếm lời nên nhìn chung thị trường liên ngân hàng ở nước ta vẫn chưa thật sự phát triển mạnh. Thực tế cho thấy rằng, dù lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng (1) có thấp hơn so với lãi suất huy động vốn từ doanh nghiệp và dân cư (2), nhưng đa số các ngân hàng vẫn chọn huy động từ nguồn số (2). Lí do là vì nguồn số (2) có tính ổn định hơn và là cơ sở để ngân hàng xem xét xây dựng các kế hoạch sử dụng vốn thích hợp trong ngắn hạn và cả dài hạn. Còn nguồn số (1) chỉ mang tính chất giải quyết các nhu cầu vốn tạm thời hay xử lý các tình huống cấp bách ngoài dự kiến của ngân hàng,


thường chỉ có kỳ hạn ngắn. Đối với những trường hợp còn lại, nếu vay vốn từ nguồn (1) không nhằm thực hiện mục đích này thì đa phần là kiếm lời qua hình thức ủy thác, bằng cách họ vay vốn từ nguồn (1) rồi ủy thác đầu tư cho công ty con của họ, các công ty con này sẽ gửi vào ngân hàng khác (dù ngân hàng này biết nguồn vốn được huy động vào là từ đâu nhưng vẫn chấp nhận do phải hoàn thành các kế hoạch huy động dự kiến trước thực trạng cạnh tranh lãi suất ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng) với một lãi suất thỏa thuận cao hơn rồi hưởng chênh lệch lãi suất. Quá trình này làm cho nguồn vốn chỉ di chuyển quanh quẩn trong phạm vi của các ngân hàng, không phục vụ cho phát triển kinh tế khi mà còn nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn. Và khi nó diễn ra đến một thời điểm nhất định, mặc nhiên lãi suất từ cả hai nguồn sẽ cân bằng với nhau, khoảng cách chênh lệch gần như sẽ không còn. Khi đó các ngân hàng lại càng không quan tâm đến việc mua bán vốn qua lại lẫn nhau. Điều này cũng lại khiến cho thị trường liên ngân hàng không phát huy được vai trò của nó. Giải pháp là, đa dạng hóa các công cụ trên thị trường liên ngân hàng. Điều này sẽ góp phần đa dạng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tạo thêm nhiều sự lựa chọn cho các ngân hàng khác trong quá trình hoạt động, cung ứng vốn và sử dụng vốn. Mặt khác, cần nâng cao hơn nữa năng lực quản lý, điều hành của NHNN vào thị trường liên ngân hàng. Đồng thời tăng cường công tác thanh tra, giám sát của NHNN về số lượng và cả lãi suất trên thị trường này để có các biện pháp can thiệp kịp thời khi phát hiện dấu hiệu bất ổn.

Ba là, hoạt động trên thị trường liên ngân hàng diễn ra chưa sôi nổi. Phần lớn các giao dịch là mua bán vốn qua lại lẫn nhau giữa các TCTD trong nước và một vài tổ chức lớn nước ngoài khác, chưa thật sự kết nối được với các TCTD của nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới. Giải pháp là, nâng cao hơn nữa trình độ công nghệ của các ngân hàng; chuẩn hóa các công cụ trên thị trường liên ngân hàng và xây dựng quy chế hoạt động của các đối tượng tham gia sao cho phù hợp với các quy định và chuẩn mực quốc tế. NHNN cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng trong nước tham gia vào thị trường tiền tệ khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, các ngân hàng trong nước cũng cần có sự chuẩn bị cho mình các điều kiện

Xem tất cả 86 trang.

Ngày đăng: 23/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí