có đoạn vấn đề cần nhấn mạnh do vi phạm HĐLT, mức tăng trưởng của khách hàng, khoản mục nợ phải thu & HTK/tổng TS, hành vi ĐCLN. Điều này phù hợp
với các quy định, hướng dẫn trong các
chuẩn mực kiểm toán
đã cho thấy
các
công ty có RRKT cao khi công ty khách hàng nhận YKKT năm trước không phải
là YKCNTP, YKKT có đoạn vấn đề cần nhấn mạnh do vi phạm HĐLT, mức
tăng trưởng của khách hàng cao, khoản mục nợ phải thu & HTK/tổng TS và hành vi ĐCLN cao. Kết quả NC cũng phù hợp với lý thuyết quản trị rủi ro, lý thuyết ra quyết định khi các lý thuyết này cho rằng, để hạn chế rủi ro, các CTKT cần đánh giá các nhân tố thuộc RRKT để đưa ra quyết định DTKH phù hợp và các CTKT thường từ chối những khách hàng có RRKT cao.
Đối với giả thuyết H6: Giả thuyết H6 được chấp nhận trong mô hình. Điều này chứng minh RRTC có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. Kết quả này tương đồng với kết quả của Johnstone và Bedard (2004), Schroeder và Hogan (2013). NC này đã đo lường rủi ro tài chính theo như Hsieh và Lin (2016) đó là RRTC được đo lường bằng hệ số Zscore âm. Kết quả cũng phù hợp với lý thuyết quản trị rủi ro, lý thuyết ra quyết định khi các lý thuyết này cho rằng, để hạn chế rủi ro, các CTKT cần đánh giá nhân tố rủi ro tài chính để đưa ra quyết định DTKH phù hợp và các CTKT thường từ chối những khách hàng có rủi ro tài chính cao.
Đối với giả thuyết H7: Giả thuyết H7 được chấp nhận trong mô hình. Điều này chứng minh khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT có ảnh hưởng ngược
chiều với
quyết định DTKH. Colbert và cộng sự (1996) cho rằng
khách hàng
thường xuyên thay đổi CTKT là dấu hiệu cho thấy có thể có RRKD của khách hàng. Tuy nhiên chưa có NC nào xem xét ảnh hưởng của nhân tố này tới quyết định DTKH. Do đó, kết quả này là phát hiện mới trong bối cảnh VN. Điều này là do khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT là một trong những dấu hiệu cho thấy có thể có RRKD của khách hàng. Hơn nữa khách hàng thường xuyên thay
đổi CTKT trong quá khứ
đã một phần cho thấy mối quan hệ
không tốt giữa
khách hàng và KTV tiền nhiệm. Với một nguồn lực có hạn, khi các CTKT có được những khách hàng tốt hơn, các CTKT thường sẽ không duy trì những khách hàng này. Do vậy, khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT là một trong các yếu tố mà CTKT độc lập VN cần xem xét để đưa ra quyết định phù hợp. Kết quả này cũng có thể được giải thích bởi lý thuyết quản trị rủi ro, lý thuyết ra quyết định khi các lý thuyết này cho rằng, để hạn chế rủi ro, các CTKT cần phân tích, đánh giá các nguyên nhân đưa đến rủi ro mà CTKT có thể gặp phải, dựa vào mục tiêu, mong muốn của các CTKT để đưa ra quyết định DTKH phù hợp.
Đối với giả thuyết H8: Giả thuyết H8 được chấp nhận trong mô hình. Như
vậy,
khả
năng thực hiện kiểm toán của CTKT
có ảnh hưởng cùng chiều với
quyết định DTKH. Các NC trước như Huss và Jacobs (1991), Ouertani và Ayadi (2012) thực hiện NC đã cho thấy khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT là yếu tố thuộc RRKD của CTKT có ảnh hưởng đến quyết định DTKH. Tuy nhiên các
NC này chưa đo lường, kiểm định ảnh hưởng của nhân tố này tới quyết định
DTKH. Trong NC này, khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT đo lường qua số
KTV được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng của CTKT
trong năm/số khách hàng kiểm toán của CTKT tính trong năm trước. Kết quả NC này phù hợp với các lý thuyết nền như lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý thuyết ra quyết định cân bằng về đạo đức khi các lý thuyết này cho rằng, các CTKT cần cần dựa vào khả năng, nguồn lực của mình và các điều kiện khách quan (các yếu tố rủi ro) để đưa ra quyết định DTKH phù hợp nhằm giúp tối đa hóa lợi ích cho CTKT.
Đối với giả thuyết H9: Giả thuyết H9 được chấp nhận trong mô hình. Điều này chứng minh tính chính trực của NQL khách hàng có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. Các NC trước như Arens và Loebbecke (2000), Asare và cộng sự (2005) đã cho thấy tính chính trực của NQL khách hàng là yếu tố thuộc RRKD của CTKT có ảnh hưởng tới quyết định DTKH. Trong NC này, tính chính trực của NQL khách hàng được đo lường thông qua số lượng các yếu tố rủi ro
xuất hiện liên quan đến tính chính trực của NQL khách hàng (khách hàng đang có kiện tụng, tranh chấp; khách hàng đang có kiểm tra, thanh tra của cơ quan Nhà nước, các cuộc điều tra liên quan đến các chủ sở hữu, BQT, Ban giám đốc của khách hàng hoặc lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp; có dấu hiệu cho thấy có thể có sự lạm quyền (Chủ tịch HĐQT đồng thời là Giám đốc) hay quyền lực tập trung vào một số ít người, có sự thay đổi nhân sự phòng kế toán (kế toán trưởng) trong năm, có sự thay đổi NQL (Chủ tịch HĐQT, Giám đốc)). Theo đó, khi số lượng các yếu tố rủi ro xuất hiện liên quan đến tính chính trực của NQL khách hàng càng cao, RRKD của CTKT càng cao, DTKH sẽ thấp. Kết quả NC phù hợp với quan điểm của lý thuyết ra quyết định cân bằng về đạo đức, lý thuyết quản trị rủi ro khi các lý thuyết này cho rằng, các CTKT sẽ xem xét, đánh giá tính chính
trực của NQL khách hàng khi đưa ra đảm bảo uy tín nghề nghiệp.
quyết định DTKH nhằm hạn chế rủi ro,
Đối với giả thuyết H12: Giả thuyết H12 được chấp nhận trong mô hình. Như vậy, mức độ chuyên ngành của CTKT sẽ làm tăng ảnh hưởng ngược chiều của rủi ro tài chính đến quyết định DTKH. Kết quả này hoàn toàn tương đồng với kết quả của Hsieh và Lin (2016). Kết quả cũng phù hợp với lý thuyết động
lực
khi lý thuyết này cho rằng,
các KTV, CTKT có mức độ
chuyên
ngành cao
thường giảm khách hàng có rủi ro cao để tránh rủi ro kiện tụng và bảo vệ danh tiếng của họ.
Bảng 4.23: Tổng hợp kết quả kiểm định giả thuyết
Nội dung giả thuyết | Kỳ vọn g | Kết quả kiểm định | |
H1 | YKKT năm trước không phải là YKCNTP có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH | | Chấp nhận |
H2 | YKKT về HĐLT có ảnh hưởng ngược chiều với | | Chấp |
Có thể bạn quan tâm!
- Kiểm Tra Chênh Lệch Giữa Giá Trị Trung Bình Và Cá Biệt
- Kiểm Tra Đa Cộng Tuyến Giữa Các Biến Độc Lập
- Kết Quả Hồi Quy Mô Hình Nghiên Cứu Với Thông Số Thay Thế
- Hạn Chế Và Hướng Nghiên Cứu Tiếp Theo
- Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định duy trì khách hàng tại các công ty kiểm toán độc lập Việt Nam - 23
- Bảng Tóm Tắt Các Nc Về Ảnh Hưởng Của Các Nhân Tố Rủi Ro Đến Quyết Định Cn, Dtkh
Xem toàn bộ 276 trang tài liệu này.
quyết định DTKH. | nhận | ||
H3 | Sự tăng trưởng của khách hàng có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H4 | Sự tăng trưởng của khách hàng có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H5 | Hành vi điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H6 | Rủi ro tài chính có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H7 | Khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H8 | Khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT có ảnh hưởng cùng chiều với quyết định DTKH. | + | Chấp nhận |
H9 | Tính chính trực của NQL khách hàng có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
H12 | Mức độ chuyên ngành của CTKT sẽ làm tăng ảnh hưởng ngược chiều của rủi ro tài chính đến quyết định DTKH. | | Chấp nhận |
Nguồn: tác giả
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Chương bốn (4) đã trình bày và phân tích kết quả của hai giai đoạn NC định tính và NC định lượng. Kết quả thảo luận với chuyên gia cho thấy có mười hai
(12) nhân tố ảnh hưởng tới quyết định DTKH phù hợp với các CTKT độc lập VN. Trong đó, chín (09) nhân tố kế thừa từ các NC trước đó là các nhân tố thuộc RRKT (gồm YKKT không phải là YKCNTP, YKKT về HĐLT, sự tăng trưởng của khách hàng, tỷ lệ nợ phải thu và HTK trên tổng TS, hành vi ĐCLN), rủi ro tài chính, giá phí, bộ phận KTNB, mức độ chuyên ngành của CTKT, ba (03) nhân tố mới được điều chỉnh, xây dựng thang đo, đó là tính chính trực của NQL khách hàng, khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT và khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT ảnh hưởng đến quyết định DTKH phù hợp với các CTKT độc lập VN. Từ kết quả này, tác giả đã xây dựng mô hình và giả thuyết chính thức cho luận án. Dựa trên mẫu là 762 công ty niêm yết trên HOSE và HNX được kiểm toán bởi các CTKT độc lập với tổng số 2.478 quan sát từ năm 2016 đến 2019, kết quả hồi quy mô hình cho thấy các biến độc lập gồm có các nhân tố thuộc RRKT (gồm
YKKT không phải là
YKCNTP, YKKT về HĐLT, sự
tăng trưởng
của khách
hàng, tỷ lệ nợ phải thu và HTK trên tổng TS, hành vi ĐCLN), rủi ro tài chính, khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT, tính chính trực của NQL khách hàng có ảnh hưởng ngược chiều với quyết định DTKH; mức độ chuyên ngành của CTKT làm tăng ảnh hưởng ngược chiều của rủi ro tài chính đến quyết định DTKH; khả
năng thực hiện kiểm toán của CTKT có ảnh hưởng cùng chiều với quyết định DTKH. Trong đó, rủi ro tài chính, khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT là hai
(02) nhân tố thuộc RRKD của khách hàng; khả năng thực hiện kiểm toán của
CTKT, tính chính trực của NQL khách hàng là hai (02) nhân tố thuộc RRKD của CTKT. Đồng thời, biến kiểm soát quy mô của khách hàng cũng có ảnh hưởng đến quyết định DTKH. Biến bộ phận kiểm toán nội bộ không có ảnh hưởng đến quyết định DTKH. Nội dung kết quả phân tích hồi quy trong mô hình sẽ là cơ sở để tác giả đề xuất các hàm ý trong chương sau.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, HÀM Ý VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở kết quả đã được trình bày trong chương 4, trong chương 5, tác giả trình bày các kết luận và đề xuất một số hàm ý liên quan đến quyết định DTKH cho các CTKT. Các hàm ý này nhằm giúp CTKT đưa ra quyết định DTKH hợp lý, giúp giảm thiểu các rủi ro, nâng cao chất lượng kiểm toán. Phần cuối chương trình bày một số hạn chế chính và hướng NC tiếp theo.
5.1. Kết luận
Mục tiêu của
luận án
là xác định
các nhân tố ảnh hưởng
tới quyết định
DTKH tại các CTKT độc lập VN. Mục tiêu này được cụ thể hóa dưới dạng các câu hỏi NC gồm: (1) Các nhân tố nào có ảnh hưởng đến quyết định DTKH tại các CTKT độc lập VN? (2) Các nhân tố này được đo lường như thế nào? (3) Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến quyết định DTKH tại các CTKT độc lập VN như thế nào? Để đạt được mục tiêu NC này, tác giả sử dụng phương pháp NC hỗn hợp trong luận án. Trong đó, từ mô hình đề xuất ban đầu, tác giả thực hiện NC định tính thông qua thảo luận với chuyên gia là các KTV độc lập giữ chức vụ Giám đốc, phó Giám đốc tại các CTKT để khám phá các nhân tố mới bên cạnh các nhân tố kế thừa từ các NC trước, xây dựng và điều chỉnh các thang đo các nhân tố cho phù hợp trong bối cảnh VN, từ đó, tác giả xây dựng mô hình hoàn chỉnh và các giả thuyết chính thức. Sau đó, NC định lượng được thực hiện
qua kiểm định hồi quy
Logistic với
dữ liệu thứ
cấp được thu thập dựa trên
BCTC, BCTN trên trang web cafef.vn, mof.gov.vn trên 2.478 mẫu và xử lý bằng Chương trình SPSS 22 để kiểm định các giả thuyết NC trong mô hình cũng như kiểm định và xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới quyết định DTKH tại các CTKT độc lập VN.
Mô hình sơ khởi và các giả thuyết ban đầu được tác giả đề xuất dựa vào NC
của các tác giả như Johnstone và Bedard (2004), Schroeder và Hogan (2013),
Hsieh và Lin (2016) và các lý thuyết nền liên quan như lý thuyết ra quyết định, lý thuyết quản trị rủi ro, các lý thuyết về động lực, lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý thuyết ra quyết định cân bằng về đạo đức. Do các NC trên được thực hiện ở các quốc gia phát triển, có nhiều điều kiện khác biệt so với một quốc gia đang phát triển như VN, luận án không thể sử dụng mô hình và thang đo từ các NC trước mà cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện, bối cảnh VN. Chính vì vậy, mô hình và giả thuyết chính thức đã được điều chỉnh phù hợp với bối cảnh VN bằng NC định tính. Mô hình hoàn chỉnh cuối cùng có các biến độc lập được kế thừa từ các NC trước là: các nhân tố thuộc RRKT gồm YKKT năm trước không
phải là YKCNTP, YKKT về HĐLT, sự tăng trưởng của khách hàng, tỷ lệ nợ
phải thu và HTK/tổng TS, hành vi ĐCLN, rủi ro tài chính, bộ phận KTNB, mức độ chuyên ngành của CTKT. Bên cạnh đó, mô hình còn được bổ sung thêm ba biến độc lập, với thang đo mới được điều chỉnh, đó là khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT (đo lường bằng số lần thay đổi CTKT từ khi niêm yết/số năm mà CTNY), khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT (đo lường qua số KTV được chấp thuận kiểm toán cho đơn vị có lợi ích công chúng của CTKT trong năm/số khách hàng kiểm toán của CTKT tính trong năm trước), tính chính trực của NQL khách hàng (được đo lường bằng số lượng yếu tố rủi ro xuất hiện liên quan tới tính chính trực của NQL khách hàng). Đồng thời, một biến kiểm soát cũng được
sử dụng trong mô hình này
dựa trên các NC trước
là: Quy mô của khách hàng
(được đo lường bằng logarit của doanh thu). Như vậy, mô hình hoàn chỉnh gồm
11 biến độc lập và một biến kiểm soát ảnh hưởng tới biến phụ thuộc là quyết định DTKH.
Kết quả kiểm định hồi quy Logistic mô hình NC được trình bày trong chương
4. Từ
kết quả
này cho thấy, các nhân tố thuộc
RRKT gồm
YKKT năm trước
không phải là YKCNTP, YKKT về HĐLT, sự tăng trưởng của khách hàng, tỷ lệ nợ phải thu và HTK/tổng TS, hành vi ĐCLN, RRTC, khách hàng thường xuyên thay đổi CTKT, tính chính trực của NQL khách hàng đều có ảnh hưởng ngược
chiều
tới
quyết định DTKH. Mức độ
chuyên
ngành của CTKT
làm tăng
ảnh
hưởng ngược chiều của rủi ro tài chính đến quyết định DTKH. Nhân tố khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT có ảnh hưởng cùng chiều tới quyết định DTKH. Kết quả này đã trả lời cho câu hỏi 1,2,3. Kết quả cũng cho thấy trong số các nhân tố, hành vi điều chỉnh lợi nhuận có ảnh hưởng mạnh nhất và còn lại theo thứ tự là mức độ chuyên ngành của CTKT tương tác với YKKT không phải là YKCNTP, tỷ lệ nợ phải thu và HTK trên tổng TS, khả năng thực hiện kiểm toán của CTKT, YKKT năm trước không phải là YKCNTP, YKKT về HĐLT, khách
hàng thường xuyên thay đổi CTKT, mức tăng trưởng của khách hàng, mức độ
chuyên ngành của CTKT tương tác với rủi ro tài chính, tính chính trực của NQL khách hàng, rủi ro tài chính.
Kết quả trong chương 4 cũng cho thấy được bằng chứng về ảnh hưởng cùng chiều của nhân tố quy mô khách hàng đến quyết định DTKH. Tuy nhiên, kết quả không cho thấy ảnh hưởng của nhân tố bộ phận kiểm toán nội bộ tới quyết định DTKH.
Trong khi chưa có đề tài NC nào về chủ đề này được thực hiện tại VN, khi thực hiện NC này, tác giả mong muốn được đóng góp thêm các cơ sở lý luận cho
những NC trong lĩnh vực kiểm toán độc lập, đặc biệt là những NC hướng tới
quyết định DTKH giúp các CTKT đưa ra quyết định DTKH hợp lý, giảm thiểu các rủi ro cho các CTKT, nâng cao chất lượng kiểm toán. Dựa trên tổng quan và