Các Nghiên Cứu Thực Hiện Tại Các Doanh Nghiệp Trong Ngành Dầu Khí


các trang web chính thức của các tập đoàn bởi 169 công ty trên sở giao dịch chứng khoán Stockholm và tất cả các tập đoàn quốc doanh tại năm 2007. Các công bố TNXH trên trang web của công ty được chia thành ba khía cạnh, cụ thể là tiết lộ về môi trường, tiết lộ về đạo đức và tiết lộ về nguồn nhân lực dựa trên các nghiên cứu và tổ chức trước đây. Một cách tiếp cận cho điểm không trọng số đã được sử dụng để tạo chỉ số tiết lộ, kỹ thuật hồi quy bội số đã được áp dụng để điều tra mối quan hệ giữa các tiết lộ báo cáo TNXH trên trang web của công ty và các đặc điểm khác nhau của công ty. Các phát hiện cho thấy mối tương quan cùng chiều giữa quy mô doanh nghiệp và lợi nhuận đối với việc công bố báo cáo TNXH trên các trang web của công ty. Ngoài ra, các tập đoàn quốc doanh tiết lộ nhiều thông tin TNXH hơn trên các trang web của họ so với các tập đoàn tư nhân, trong khi có sự khác biệt đáng kể giữa ngành và đặc điểm của công ty. Said và cộng sự (2009) nhằm mục đích kiểm tra mức độ công bố thông tin báo cáo TNXH đối với các đặc điểm quản trị công ty tập trung vào 150 công ty đại chúng niêm yết của Malaysia tại thời điểm 2006. Phương pháp phân tích nội dung được sử dụng để xây dựng chỉ số công bố thông tin báo cáo TNXH dựa trên các thành phần công bố thông tin từ các nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Dựa trên phân tích hồi quy, kết quả đã chỉ ra nhân tố quyền sở hữu của chính phủ và hướng dẫn của kiểm toán quyết định đến mức độ tiết lộ báo cáo TNXH. Reverte (2009) đã kiểm tra các nhân tố quyết định việc tiết lộ báo cáo TNXH của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Madrid và đưa vào chỉ số IBEX35 vào năm 2005 và 2006. Dựa trên mô hình hồi quy tuyến tính, kết quả cho thấy rằng các nhân tố quyết định đến việc công bố báo cáo TNXH được xếp theo thứ tự giảm dần là khả năng hiển thị trên phương tiện truyền thông, quy mô doanh nghiệp và loại ngành mà doanh nghiệp hoạt động. Hossain và Reaz (2007) đã tập trung vào 38 ngân hàng niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Bombay và sở giao dịch chứng khoán quốc gia để tìm hiểu nhân tố quyết định mức độ tiết lộ báo cáo TNXH; xem xét các báo cáo TNXH hàng năm giai đoạn 2002- 2003. Chỉ số công bố thông tin báo cáo TNXH dựa trên 65 mục công bố thông tin, có tính đến việc tiếp cận công bố thông tin phân chia theo chất lượng rò ràng hơn. Thông qua việc phân tích mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất thông thường, kết


quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp và giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp là nhân tố ảnh hưởng tích cực đối với mức độ công bố báo cáo TNXH. Khan (2010) với một nghiên cứu về 30 ngân hàng thương mại tư nhân Bangladesh, đã điều tra ảnh hưởng của các đặc điểm quản trị công ty đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo TNXH trong giai đoạn 2007-2008. Chỉ số công bố thông tin trên báo cáo TNXH được tính toán bằng cách sử dụng phương pháp phân tích nội dung dựa trên 60 mục công bố thông tin. Phân tích hồi quy bội số được sử dụng để kiểm tra 5 giả thuyết có ảnh hưởng đến mức độ công bố trên báo cáo TNXH. Quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, không có giám đốc điều hành của công ty và sự tồn tại của các thành viên quốc tịch nước ngoài trong hội đồng quản trị có ý nghĩa tích cực đối với mức độ công bố báo cáo TNXH. Jennifer Ho và Taylor (2007) đã kiểm tra các nhân tố quyết định mức độ tiết lộ báo cáo TNXH của 50 công ty lớn nhất tại Mỹ và Nhật Bản vào đầu năm 2003. Việc xây dựng chỉ số công bố báo cáo TNXH dựa trên 20 mục công bố thông tin thừa hưởng các nghiên cứu thực nghiệm trước đó. Dựa trên nhiều mô hình hồi quy, kết quả cho thấy rằng các công ty có quy mô lớn hơn, lợi nhuận thấp hơn, tính thanh khoản thấp hơn và số lượng lao động thấp hơn là những yếu tố quyết định quan trọng đến mức độ công bố báo cáo TNXH. Ngoài ra, mức độ công bố báo cáo TNXH cao hơn đối với các công ty Nhật Bản so với các công ty tại Mỹ, trong đó công bố môi trường là khía cạnh quan trọng nhất do sự khác biệt về văn hóa quốc gia, các yếu tố môi trường pháp lý và thể chế khác giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Rahman và cộng sự (2011) đã điều tra mối quan hệ giữa những đặc điểm doanh nghiệp đối với việc công bố báo cáo TNXH của 44 công ty liên kết với chính phủ niêm yết trên sàn chứng khoán Malaysia trong năm 2005 và 2006. Một phân tích nội dung đã được sử dụng để phát triển chỉ số công bố báo cáo TNHX, chỉ tính đến 16 mục công bố thông tin. Kết quả dựa trên phân tích hồi quy tuyến tính bội số đã minh họa rằng chỉ có nhân tố quy mô doanh nghiệp có liên quan tích cực với chỉ số công bố thông tin trên báo cáo TNXH. Một nghiên cứu tiêu biểu có thể kế đến là nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo tích hợp liên quan đến PTBV của José V. Frias- Aceituno, Lázaro Rodríguez-Ariza và Isabel M. Garcia-Sánchez (2012). Kết quả


nghiên cứu đã chỉ ra rằng có năm nhân tố chính ảnh hưởng đến việc thiếp lập và công bố báo cáo PTBV: (1) Quy mô DN càng tăng thì mức độ cần thiết để cung cấp các thông tin tài chính đặc biết là các thông tin phi tài chính (xã hội, môi trường) ngày càng tăng (2) Khả năng sinh lời, câu hỏi về khả năng sinh lời của công ty và việc công khai thông tin tự nguyện thông qua báo cáo PTBV là một vấn đề khá phức tạp. Các công ty có lợi nhuận sẽ CBTT nhằm phân biệt mình với những DN kém lợi nhuận hơn, chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất có thể và ngăn ngừa việc giảm giá cổ phiếu. (3) Lĩnh vực kinh doanh, các công ty kinh doanh trong cùng một lĩnh vực thường sẽ CBTT theo một mô hình tương tự nhau, còn ngược lại thì thông tin đó được hiểu là khó kiểm chứng. (4)Vị trí ngành, nếu ngành nghề kinh doanh của công ty là độc quyền thì nên công bố minh bạch nhiều hơn về ảnh hưởng của hoạt động sản xuất kinh doanh đến môi trường và xã hội (5) Cơ hội tăng trưởng, nghiên cứu chỉ ra rằng chính sách minh bạch thông tin của DN là một nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến lợi ích tăng trưởng của DN đó. Nhân tố này có nghĩa là các DN chỉ có thể nhận được nhiều vốn đầu tư từ các nhà đầu tư bên ngoài bằng cách đưa ra những thông tin chính xác hơn. Một nghiên cứu nổi bật gần đây về các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin trên báo cáo TNXH của Isabel Gallego-Álvarez Ivo Alexandre Quina-Custodio (2016). Nghiên cứu này dựa trên mẫu 110 công ty vào năm 2014, tổng cộng 79 chỉ số đã được phân tích, 9 trong số đó tương ứng với các khía cạnh kinh tế của công ty, 30 khía cạnh môi trường và 40 khía cạnh xã hội, dựa theo bộ tiêu chí sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI G3.1). Kết quả của nghiên cứu này một lần nữa khắng định nhân tố quy mô DN ảnh hưởng đến công bố báo cáo TNXH, ngoài ra nhân tố đòn bẩy kinh doanh cũng như hệ thống luật pháp và chỉ số bền vững của Dow Jones tác động mạnh nhất theo thứ tự trên đến công bố báo cáo TNXH.

Để thấy rò hơn vấn đề tổng quan các tài liệu nghiên cứu lên quan đến vấn đề PTBV qua các giai đoạn khác nhau. Tác giả đề cập thêm một số nghiên cứu nổi bật. Hahn & Kühnen (2013) đã tổng quan 178 công bố giai đoạn từ năm 1999-2011, qua đó ghi nhận các “làn sóng” qua mỗi giai đoạn liên quan đến sự thay đổi của các phiên bản GRI. Nghiên cứu được thực hiện với trình tự như sau: Đầu tiên, phương


pháp nghiên cứu cũng như các thuật ngữ cơ bản được mô tả. Sau đó, một phân tích mô tả của các tài liệu đã tồn tại được cung cấp xem xét sự phân bố của các bài báo theo thời gian, các khía cạnh bền vững được đề cập, các nhà xuất bản và các phương pháp tiếp cận. Để minh họa tình trạng tài liệu tổng quan hiện tại, sau đó giải quyết cụ thể các yếu tố quyết định đến báo cáo PTBV và thảo luận về các kết quả nghiên cứu chính. Hahn & Kühnen (2013) cũng đã cung cấp một liên kết sâu sắc giữa các lý thuyết nền với nhau và bằng cách khắc họa những khoảng trống đáng kể trong nghiên cứu hiện tại để minh họa các cơ hội và thách thức cho nghiên cứu trong tương lai. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong nhóm những nghiên cứu về lĩnh vực các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo PTBV, Hahn & Kühnen (2013) đã tổng hợp các nhóm nhân tố bên trong và bên ngoài dựa trên khía cạnh chấp nhận, phạm vi và chất lượng công bố thông tin.

Sau đó, Dienes và cộng sự (2016) đã tổng hợp từ 316 nghiên cứu giai đoạn từ đầu năm 2000 đến đầu năm 2015. Dienes và cộng sự (2016) đã ghi nhận 7 nhân tố được tổng hợp từ 33 biến độc lập, bao gồm: quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, cấu trúc vốn, truyền thông, cơ cấu quản trị công ty, cơ cấu sở hữu và tuổi của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 255 trang tài liệu này.

Qua các nghiên cứu thực nghiệm tại các DN trên toàn thế giới, tác giả nhận thấy các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT liên quan đến môi trường, trách nhiệm xã hội bao gồm nhân tố không thể thiếu đó là quy mô DN. Ngoài ra, tùy vào các bối cảnh và thời gian nghiên cứu khác nhau, mỗi nghiên cứu đã đưa ra các nhân tố nhằm làm rò công bố những loại báo cáo này như là: cơ hội tăng trưởng, khả năng sinh lời, quy định pháp lý và quan điểm của nhà quản lý. Các nhân tố như thâm niên của DN, chỉ số bền vững Dow Jones, chỉ số GRI mang tính chất đại diện cho bối cảnh nghiên cứu tại các quốc gia một cách cụ thể. Đây chính là tiền đề để tác giả có cách nhìn khái quát hơn về các nghiên cứu thực nghiệm, từ đó rút ra những kinh nghiệm và xây dựng một mô hình với các nhân tố phù hợp hơn cho nghiên cứu của mình. Một điểm dễ nhận thấy là dữ liệu thứ cấp chủ yếu được dùng để thực hiện các nghiên cứu, chưa có nhiều nghiên cứu sử dụng dữ liệu sơ cấp đo lường cảm nhận


Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo phát triển bền vững tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam - 6

của các nhà quản lý của DN ảnh hưởng đến việc công bố báo cáo PTBV. Tauringana (2020)

1.2.2.1 Các nghiên cứu trong nước

Gần như các DN tại Việt Nam chưa có thói quen công bố các thông tin liên quan đến báo cáo PTBV. Chỉ có một số ít doanh nghiệp làm tốt công việc này như Bảo hiểm Bảo Việt, Công ty CP sữa Việt Nam, tập đoàn FPT… Chính vì vậy đã có một số công trình đề cập đến lợi ích cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến CBTT liên quan đến tài chính và những thông tin phi tài chính nhằm giúp doanh nghiệp PTBV. Phan Văn Đàn (2016) thông qua nghiên cứu về các yếu tố tác động đến PTBV tại các DN thủy sản trên địa bản tỉnh Bạc Liêu đã đề cập nhiều mô hình lý thuyết PTBV trong loại hình DNNVV nhằm làm sáng tỏ trường hợp nghiên cứu các yếu tố tác động đến PTBV tại các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Kết quả của luận án thể hiện tính thực tiễn của việc thực hiện PTBV tại các doanh nghiệp thủy sản tỉnh Bạc Liêu. Một là, thông qua kết quả nghiên cứ giúp cho những nhà quản lý kinh tế tại tỉnh Bạc Liêu có thể đưa ra những chính sách hỗ trợ cần thiết nhằm hướng đến việc PTBV trong lĩnh vực nuôi trồng và kinh doanh mặt hàng thủy sản trên địa bàn tỉnh. Hai là, đóng góp về mặt lý thuyết, mô hình nghiên cứu đối với các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực PTBV doanh nghiệp tại Việt Nam. Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng, điều chỉnh, bổ sung các thang đo lường PTBV doanh nghiệp cho nghiên cứu của mình trong những loại hình doanh nghiệp khác nhau hoặc lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Ba là, đối với Ủy ban nhân tỉnh cần rà soát lại kế hoạch phát triển doanh nghiệp theo hướng tiếp cận và mở rộng các lĩnh vực hoạt động khác nhau trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu để bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với tình hình PTBV doanh nghiệp.

Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Kim Tuyến (2017) nghiên cứu ảnh hưởng các nhân tố đến CBTT môi trường của các công ty đã niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu điều tra của nghiên cứu là khoảng 80 DN niêm yết trên hai thị trường chứng khoán là sàn chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh-HOSE và sàn chứng khoán Hà Nội-HNX tại thời điểm năm 2015. Kết quả điều tra cho thấy rằng doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì càng có nhu cầu cao tiết


lộ thông tin về môi trường, các công ty có tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu càng lớn thì nhu cầu công bố thông tin càng cao để tạo niềm tin và thu hút vốn từ các nhà đầu tư bên ngoài. Khả năng sinh lời cũng là một nhân tố tích cực để doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán CBTT hướng đến việc tiết kiệm chi phí, gia tăng lợi ích trong tương lai.

Một nghiên cứu tổng quát của Nguyễn Thị Hằng Nga (2018), cho thấy rò các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện KTQT môi trường tại các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất trên địa bàn các tỉnh thành khu vực phía Nam. Nghiên cứu đã tổng hợp lý thuyết nền liên quan từ những nghiên cứu nổi bật trước đây, từ đó bổ sung các nhân tố tác động đến việc thực hiện KTQTMT vào mô hình của mình trong nghiên cứu của mình. Điểm mới của công trình này là đã thông qua hai lý thuyết thể chế và ngẫu nhiên nhằm mục đích thực hiện phân tích những nhân tố trong hai bối cảnh khác nhau đó là bối cảnh xã hội và bối cảnh tổ chức và đã phân tích những nhân tố có ảnh hưởng trung gian, gián tiếp đến việc thực hiện KTQTMT tại các DN. Mặc dù trên thế giới hiện nay, vẫn có nhiều quan điểm chưa thật sự thống nhất về các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện KTQTMT trong các DN nhưng nghiên cứu này đã rất cố gắng để có thể xây dựng được những thang đo, nhân tố trong mô hình của mình có tính riêng biệt, đặc trưng trong bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam.

Gần đây, những nghiên cứu liên quan đến đo lường các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố báo cáo PTBV tại các doanh nghiệp Việt Nam dần được quan tâm nhiều. Khánh và Tuấn (2018), xác định các nhân tố ảnh hưởng đến báo cáo PTBV của các công ty niêm yết tại Việt Nam. Nghiên cứu đã xây dựng bộ chỉ số đánh giá chất lượng các báo cáo PTBV; áp dụng bộ chỉ số để đánh giá tất cả các báo cáo PTBV của các công ty niêm yết tại Việt Nam năm 2016 (99 công ty); xây dựng mô hình hồi quy chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến báo cáo PTBV. Kết quả nghiên cứu cho thấy qui mô doanh nghiệp, lợi nhuận gộp, doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu là các nhân tố ảnh hưởng tích cực đến báo cáo PTBV.

Liên và cộng sự (2019) dựa trên tổng quan tài liệu và phân tích hồi quy, xem xét các thông lệ thực tế về công bố thông tin doanh nghiệp trong báo cáo PTBV và


đo lường tác động của một số yếu tố liên quan đến đặc điểm của công ty đến mức độ công bố thông tin của các công ty niêm yết trong lĩnh vực khai khoáng, sản xuất và xây dựng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả cho thấy mức độ công bố thông tin của các công ty niêm yết trong ba lĩnh vực được lựa chọn về các vấn đề kinh tế, môi trường và xã hội đều thấp hơn 50%. Kết quả nghiên cứu khác cho thấy một số nhân tố liên quan đến đặc điểm của công ty như quy mô doanh nghiệp, mức độ tiếp xúc với giới truyền thông, thành phần hội đồng quản trị và phụ nữ trong ban giám đốc có tác động tích cực đến mức độ công bố về báo cáo PTBV của các công ty niêm yết trong lĩnh vực khai khoáng, sản xuất và xây dựng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Lực và Phước (2019) đã tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến việc lập báo cáo PTBV ở 143 doanh nghiệp thuộc nhóm 500 doanh nghiệp lớn (VNR500) và có niêm yết trên các sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam trong năm tài chính 2017. Kết quả cho thấy ngoài yếu tố lợi nhuận, các yếu tố còn lại như quy mô doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động và cơ hội phát triển của doanh nghiệp có tác động tích cực đến việc công bố báo cáo PTBV.

Linh và cộng sự (2019), nghiên cứu tác động của hiệu quả kinh doanh đến mức độ công bố thông tin PTBV của doanh nghiệp Việt Nam theo mô hình cấu trúc đường dẫn với số liệu của 294 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán trong 3 năm 2015 - 2017. Nghiên cứu này đã xác định các nhân tố ảnh hưởng tích cực đến mức độ công bố thông tin PTBV bao gồm hiệu quả kinh doanh, quy mô doanh nghiệp, Big4 và số lượng thành viên hội đồng quản trị. Các nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ công bố thông tin PTBV là đòn bẩy tài chính và lĩnh vực kinh doanh. Trên cơ sở kết quả, nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin PTBV của các doanh nghiệp tại Việt Nam như thúc đẩy công bố thông tin về PTBV vì lợi ích của doanh nghiệp; bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện công bố báo cáo PTBV.

Ánh và Linh (2020) nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến việc công bố báo cáo PTBV của doanh nghiệp. Mẫu nghiên cứu bao gồm 120 công ty sản xuất


niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2019. Nghiên cứu này sử dụng bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) để giải quyết các vấn đề kinh tế lượng và cải thiện độ chính xác của hệ số hồi quy. Kết quả thực nghiệm cho thấy 5 nhân tố có tác động tích cực có ý nghĩa thống kê đến việc công bố báo cáo PTBV của các công ty sản xuất, bao gồm quy mô doanh nghiệp, tính độc lập của hội đồng quản trị, tỷ lệ sở hữu nước ngoài, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu và đòn bẩy tài chính. Kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ sở hữu nhà nước có tác động tiêu cực về mặt thống kê đối với việc công bố báo cáo PTBV của các công ty sản xuất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt lớn trong việc công bố báo cáo PTBV giữa các công ty niêm yết tại Việt Nam, các công ty của các nền kinh tế mới nổi khác trong khu vực và các công ty tại các thị trường phát triển. Do đó, bài báo này cung cấp một cái nhìn mới cho các nhà quản lý và các bên liên quan về cách cải thiện việc công bố thông tin PTBV của công ty để mang lại lợi ích cho chính công ty và các bên liên quan bằng các quyết định hợp lý về các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin PTBV.

1.2.2 Các nghiên cứu thực hiện tại các doanh nghiệp trong ngành dầu khí

1.2.2.1 Nghiên cứu nước ngoài

Lĩnh vực sản xuất kinh doanh xăng dầu ảnh hưởng rất lớn trên phương diện kinh tế, xã hội vì nó là một mặt hàng thiết yếu tại các quốc gia. Bên cạnh đó mặt hàng này ảnh hưởng rất lớn đến môi trường (ô nhiễm không khí, nước,..) chính vì vậy ngay từ những nghiên cứu ban đầu liên quan đến công bố báo cáo PTBV (kinh tế, xã hội, môi trường) đã đề cập đến lĩnh vực này. Craswell, A. T. & Taylor, S. L. (1992) đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến công bố thông tin dự trữ của các công ty sản xuất dầu và khí gas. Không giống như một số nghiên cứu trước đây, nghiên cứu tập trung vào một quyết định tiết lộ thông tin trong một ngành công nghiệp cụ thể. Nghiên cứu dựa nền tảng quan điểm cho rằng quyết định cung cấp thông tin trong báo cáo định kì về dự trữ phụ thuộc vào DN phải đối mặt với các bên liên quan (Jensen và Meckling, 1976). Kết quả của bài báo đưa ra một số nhận định về kết quả cho thấy biến quy mô DN có ảnh hưởng lớn nhất đến CBTT tại các DN này với xu hướng tỷ lệ thuận. Nếu DN có quy mô càng lớn thì sẽ cần tăng cường công

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022