CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Nội dung của chương này sẽ trình bày về xu hướng nghiên cứu về mối liên hệ giữa kế toán và vấn đề PTBV, báo cáo PTBV, công bố báo cáo PTBV trên thế giới. Các nghiên cứu về công bố báo cáo PTBV ở Việt Nam cũng được tham khảo và tổng hợp. Dựa vào kết quả nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam, khoảng trống nghiên cứu sẽ được xác định.
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LIÊN QUAN ĐẾN KẾ TOÁN
1.1.1 Các nghiên cứu nước ngoài
Từ góc độ lịch sử, sự phát triển và trọng tâm của báo cáo liên quan đến PTBV đã có một số thay đổi (Fifka, 2012; Kolk, 2010). Trong những năm 1970, báo cáo tài chính truyền thống ở các nước phương Tây đôi khi được bổ sung thêm các thông tin liên quan về ảnh hưởng của công ty đến xã hội. Trong những năm 1980, trọng tâm chuyển sang các vấn đề môi trường như khí thải và phát sinh chất thải thay thế cho báo cáo xã hội trước đây. Vào cuối những năm 1990, giới học thuật và các nhà quản lý doanh nghiệp ngày càng bắt đầu xem xét khía cạnh xã hội và môi trường đồng thời trong một báo cáo chung thường được xuất bản cùng với các BCTC truyền thống. Kết quả là từ năm 1999, khi phiên bản đầu tiên của hướng dẫn báo cáo PTBV (GRI) được xuất bản. Xu hướng này có thể liên quan trực tiếp đến việc xây dựng tiêu chuẩn tự nguyện của sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI) (Kolk, 2010; Vormedal và Ruud, 2009). Ngày nay, GRI được coi là “tiêu chuẩn toàn cầu” (KPMG, 2011: 20) cho báo cáo PTBV. Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực xây dựng tiêu chuẩn chung, vẫn có sự khác biệt đáng kể giữa các công ty từ các môi trường, thể chế khác nhau về nội dung và chất lượng của các báo cáo PTBV (Fortanier và cộng sự, 2011), ngụ ý cũng có sự khác biệt trong mối quan tâm học thuật toàn cầu.
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về PTBV liên quan đến kế toán được đăng trên các tạp chí uy tín hàng đầu về lĩnh vực kinh tế - xã hội. Deegan và Gordon (1996) thực hiện nghiên cứu CBTT liên quan đến môi trường của các tập
đoàn kinh tế lớn tại Úc. Nghiên cứu đã đạt được ba mục tiêu. Thứ nhất, dựa trên số liệu được khảo sát tại năm 1991, nghiên cứu chỉ ra rằng công ty chỉ công bố thông tin hoạt động liên quan đến môi trường có lợi cho công ty mình, bên cạnh đó che giấu những thông tin tiêu cực. Thứ hai, việc tiết lộ thông tin môi trường được thực hiện theo chiều hướng gia tăng về chất lượng và tính minh bạch trong các báo cáo giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1991, cho thấy mối quan tâm của các bên liên quan đến những vấn đề môi trường ngày càng tăng. Cuối cùng, sử dụng bảng câu hỏi khảo sát đối với các nhóm vận động CBTT liên quan đến môi trường, kết quả cho thấy rằng CBTT môi trường của công ty này gắn liền với các nhóm vận động môi trường trong từng ngành cụ thể. Kolk (2004) đã tổng hợp các quan điểm đa chiều về vấn đề PTBV, đưa ra cái nhìn tổng quan các xu hướng trên thế giới về tốc độ phát triển công bố báo cáo PTBV tại các quốc gia cụ thể dựa trên cuộc điều tra được thực hiện từ đầu những năm 1990. Nghiên cứu này cho thấy có sự khác biệt rò giữa các quốc gia, các ngành nghề kinh doanh và quy mô DN trong việc cung cấp, công bố các thông tin PTBV bao gồm các thông tin liên quan đến trách nhiệm xã hội và cũng như thông tin tài chính. Nghiên cứu cũng phân tích những xu hướng phát triển mới nhất liên quan đến nội dung của báo cáo PTBV, tập trung vào các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Kolk (2004) cho thấy xu hướng các DN tại các quốc gia như Mỹ, Úc và các nước phát triển của Châu Âu như Anh, Đức, Pháp ngày càng gia tăng việc công bố báo cáo PTBV trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2002. Nhưng bên cạnh việc các quốc gia xem đó là một xu hướng tất yếu, thì một số DN tại các nước như Na Uy, Đan Mạch,… đang có xu hướng chững lại trong việc công bố thông tin trên báo cáo PTBV. Perrini, F., & Tencati, A. (2006) đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa PTBV và sự quan tâm của các bên liên quan là rất cần thiết thông qua hệ thống báo cáo PTBV. Nội dung cho thấy việc hướng đến PTBV của công ty, tức là năng lực của một công ty để tiếp tục hoạt động trong một thời gian dài, phụ thuộc vào sự bền vững của mối quan hệ giữa các bên liên quan. Quan điểm của các bên liên quan mới này của công ty vượt xa các nghiên cứu trước đây về điểm số cân bằng. Các công ty cần xây dựng một hệ thống để đo lường và kiểm soát hoạt động của mình, để đánh giá xem các hoạt động đó có đáp ứng được mối quan tâm của các
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo phát triển bền vững tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo phát triển bền vững tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam - 2
- Mục Tiêu Nghiên Cứu Và Câu Hỏi Nghiên Cứu
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Về Báo Cáo Ptbv Liên Quan Đến Kế Toán
- Các Nghiên Cứu Thực Hiện Tại Các Doanh Nghiệp Trong Ngành Dầu Khí
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Công Bố Cáo Ptbv Theo Hướng Sử Dụng Dữ Liệu Thứ Cấp
Xem toàn bộ 255 trang tài liệu này.
bên liên quan một cách hiệu quả hay không. Hệ thống kế toán hướng đến sự PTBV trước hết này phải mở rộng và tích hợp các phương pháp tiếp cận tài chính truyền thống để đo lường kết quả hoạt động của công ty.
Cùng với xu hướng cho thấy tầm quan trọng của CBTT trên báo cáo PTBV. Một nghiên cứu nổi bật về công bố thông tin hướng đến sự PTBV trong các DN hoạt động lĩnh vực xây dựng của Renard và cộng sự (2013). Mục tiêu của nghiên cứu là trình bày về vấn đề một số công ty đã cam kết chia sẻ thông tin liên quan đến các hoạt động môi trường, xã hội và quản trị, nhằm đáp ứng nhu cầu cao hơn về tính minh bạch thông tin từ các bên liên quan. Kết quả cho thấy, phần lớn các công ty xây dựng niêm yết trên TTCK đều báo cáo thông tin về vấn đề xã hội và môi trường ở mức độ thấp. Trong khi đó, các công ty xây dựng phát hành báo cáo phi tài chính (thông tin liên quan đến xã hội, môi trường) phần lớn hoạt động tốt hơn những công ty không phát hành báo cáo. Nghiên cứu này đã khẳng định vấn đề PTBV, công bố báo cáo PTBV đang dần len lỏi vào từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác nhau, loại hình DN khác nhau trên phạm vi rộng.
Một nghiên cứu về vai trò của KTQT trong việc thực hiện nhiệm vụ kế toán hướng đến PTBV của Vinal Mistry và cộng sự (2014). Mục đích là để kiểm tra vai trò của hệ thống KTQT trong việc hướng đến sự PTBV trong tổ chức của họ. Vinal Mistry và cộng sự (2014) tiến hành kiểm tra nhận thức của kế toán viên về vai trò của họ trong việc hướng đến sự PTBV của công ty mình, bằng cách tiến hành phỏng vấn và điều tra các nhân viên thuộc bộ phận KTQT từ nhiều DN khác nhau ở New Zealand. Kết quả, các nhân viên thuộc bộ phận KTQT tại DN nhỏ và vừa ở New Zealand đóng vai trò rất hạn chế trong việc hướng đến sự PTBV so với nhân viên KTQT của các DN lớn hơn. Sự tương quan giữa loại hình DN và mục tiêu hướng đến sự PTBV gắn liền với vai trò của hệ thống KTQT. Nghiên cứu này còn hạn chế vì nó chỉ là một nghiên cứu mang tính thăm dò với một số ít các DNNVV ở New Zealand. Nghiên cứu này có thể giúp cho bộ phận KTQT của cả các DN nhỏ và vừa nhận thấy rằng nên tích cực giải quyết các vấn đề đã và đang làm cản trở đến sự PTBV tại đơn vị của họ. Đây là một nghiên cứu cho thấy rò mức độ liên quan mật thiết giữa việc thực hiện, công bố báo cáo PTBV đến công việc của kế toán và
ngược lại. Rezaee (2016) đã có một nghiên cứu tổng hợp từ các lý thuyết và tích hợp chúng để giải thích giữa việc thực hiện kế toán PTBV liên quan đến hoạt động DN trong đó kế toán đóng vai trò rất quan trọng. Rezaee (2016) đã nghiên cứu về các quan điểm lý thuyết cơ bản liên quan đến việc phát triển kinh tế bền vững trong DN, dựa trên các tài liệu nghiên cứu và chỉ ra rằng mục tiêu của việc tạo ra giá trị DN có thể đạt được khi ban giám đốc xem xét lợi ích của tất cả các bên liên quan và kết hợp cả 5 khía cạnh kinh tế, quản trị, xã hội, đạo đức và môi trường của hoạt động bền vững vào chiến lược, hành động và báo cáo quản lý của DN. Cho đến thời điểm hiện tại, theo tìm hiểu của tác giả thì nghiên cứu của (Lamberton, 2005) đã tổng hợp rất nhiều tài liệu nghiên cứu nổi bật về kế toán có liên quan đến báo cáo PTBV, từ đó (Lamberton, 2005) đã lập luận và hình thành theo quan điểm cá nhân các thành phần trong hệ thống kế toán PTBV: mục tiêu của kế toán PTBV; Các nguyên tắc cơ bản của kế toán PTBV; Kỹ thuật thu thập số liệu, đo lường dữ liệu; báo cáo PTBV và thuộc tính định tính của thông tin kế toán bền vững. Đây là một tài liệu mà kết quả của nó đã giúp những bên liên quan có thể dễ hình dung ra các thành phần không thể thiếu đối với mô hình kế toán hướng đến sự PTBV trong DN. Nó mở ra các hướng nghiên cứu tiếp theo và dần giúp các nhà nghiên cứu dần hoàn thiện một khái niệm cụ thể về kế toán hướng đến sự PTBV.
Bên cạnh rất nhiểu nghiên cứu nổi bật về việc tiết lộ thông tin báo cáo môi trường hay báo cáo PTBV của DN trong rất nhiều ngành khác nhau thì có một nghiên cứu của Alazzani, Wan-Hussin (2013) về nội dung báo cáo môi trường -sáng kiến báo cáo toàn cầu: Một nghiên cứu về các công ty dầu khí. Alazzani, Wan- Hussin (2013) đề cập đến việc xem xét, sử dụng một hệ thống đánh giá tiêu chuẩn tự nguyện để báo cáo thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh tác động đến môi trường tại tám công ty xăng dầu lớn trên giới. Kết quả cho thấy, việc tự nguyện áp dụng các hướng dẫn của phần lớn các công ty dầu khí, làm tăng tính minh bạch, độ tin cậy và khả năng so sánh trong báo cáo PTBV. Ngoài ra, năm trong số tám công ty dầu khí báo cáo rằng họ đã nhận được bảo hiểm của bên thứ ba về các báo cáo PTBV. Alazzani, Wan-Hussin (2013) nhận xét DN kinh doanh trong lĩnh vực dầu và khí đốt là một trong những tài nguyên quan trọng nhất thế giới. Ngành dầu khí
đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu và hoạt động của các công ty dầu khí có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường, ngày càng trở nên quan trọng do việc sử dụng và vận chuyển dầu khí ngày càng tăng. Nhiều thảm họa môi trường liên quan đến hoạt động của các công ty dầu khí cũng có ảnh hưởng trọng yếu đến các báo cáo tài chính của công ty. Ví dụ, một sự cố tràn dầu thảm khốc vào năm 2010, gây ra bởi một vụ nổ tại giàn khoan BP ở Vịnh Mexico, đã gây ra thiệt hại lớn cho hệ sinh thái và có ý nghĩa tài chính lớn đối với BP. Tàu chở dầu Exxon Valdez mắc cạn ở Alaska vào năm 1989 đã gây ra một thảm họa môi trường lớn với hậu quả tài chính nghiêm trọng. Do khả năng suy thoái môi trường, nhiều bên liên quan đã bắt đầu chú ý đến tác động môi trường của các hoạt động của các công ty dầu khí. Việc tự nguyện áp dụng các hướng dẫn của đại đa số các công ty dầu khí làm tăng tính minh bạch, độ tin cậy và khả năng so sánh trong báo cáo PTBV. Alazzani, Wan-Hussin (2013) đã chỉ ra hạn chế ở chỗ áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp, kiểm tra các báo cáo của chỉ một vài công ty. Do đó, kết luận của nghiên cứu có thể không đại diện cho nhóm chung hoặc tổng thể.
Roger L. Burritt, Stefan Schaltegger, (2010) với nghiên cứu kế toán và báo cáo phát triển bền vững: mốt hay xu hướng. Roger L. Burritt, Stefan Schaltegger, (2010) cố gắng tổng hợp và đánh giá các tài liệu liên quan đến mối quan hệ giữa kế toán và báo cáo PTBV, mục tiêu chính là phản biện lại việc công bố BCPTV liệu có cần thiết; nghiên cứu đưa ra hai hướng nhận định. Thứ nhất, kế toán hướng đến sự PTBV là một mốt mang tính chất nhất thời và sẽ dần biến mất theo thời gian. Quan điểm này được phát biểu dựa trên các nghiên cứu, các quy ước không phù hợp cho mục đích ghi nhận và tiết lộ thông tin về các tác động xã hội và môi trường của công ty (Gray và Milne, 2002; Grey và Bebbington, 2000; Azzone và cộng sự, 1997). Grey (2010) lập luận rằng giống như định nghĩa hướng đến sự PTBV, thì vẫn còn nhiều tranh cãi về vấn đề này và cũng có rất ít hy vọng cho kế toán thực hiện công việc của mình nhằm hướng đến sự PTBV tại công ty (Gray và Milne, 2002). Thứ hai, Roger L. Burritt, Stefan Schaltegger, (2010) nhận thấy tầm quan trọng của việc ra quyết định từ nhà quản lý của công ty như một bộ công cụ cung cấp thông tin, trợ giúp cho các nhà quản lý hướng đến sự PTBV. Các nghiên cứu lý thuyết về
kế toán và quản trị doanh nghiệp cho rằng có một số quyết định của nhà quản trị hướng đến sự PTBV của công ty mà cần thiết phải tham khảo thông tin từ kế toán cung cấp (Roger L. Burritt và cộng sự, 2002). Đã có một số nghiên cứu cố gắng khẳng định mối quan hệ giữa lĩnh vực kế toán và báo cáo PTBV (Lamberton, 2005, Thomson, 2007; Aras và Crowther, 2009; Schaltegger và Burritt, 2009). Đây là xu hướng tất yếu của việc phát triển kế toán bền vững tại các DN. Ngoài ra, Roger L. Burritt, Stefan Schaltegger, (2010) cũng đã đề cập đến ba cách tiếp cận để phát triển xu hướng kế toán hướng đến PTBV. Mặc dù có nhiều rào cản liên quan đến nội dung báo cáo PTBV, Aras và Crowther (2009) nhận ra rằng các tập đoàn đã nhận thức rò hơn về lợi ích khi công bố báo cáo PTBV, họ dần nhận ra rằng hoạt động trách nhiệm xã hội là một việc làm có ý nghĩa trong kinh doanh, từ đó nhận được sự ủng hộ cũng như cùng tham gia của các bên liên quan giúp cải thiện hiệu quả kinh doanh của công ty (Schaltegger và Burritt, 2005). Các hệ thống dựa trên kiểm soát quản lý bền vững có thể giúp phát triển phương pháp theo dòi song song.
Một nghiên cứu tổng quan về vấn đề nhận thức của ban lãnh đạo doanh nghiệp về vấn đề báo cáo PTBV tại các nước đang phát triển đã được trình bày bởi Tauringana (2020). Nghiên cứu này với cách tiếp cận bằng cách sử dụng đánh giá các tài liệu nghiên cứu dựa trên nhận thức của ban lãnh đạo về các yếu tố quyết định đến báo cáo PTBV. Tác động của các nỗ lực GRI, trong việc tăng cường áp dụng báo cáo PTBV được thực hiện thông qua cả nghiên cứu trên lý thuyết và phân tích mô tả dữ liệu thu được từ cơ sở dữ liệu GRI từ năm 2014 đến năm 2019 liên quan đến 107 quốc gia đang phát triển. Tauringana (2020) kêu gọi áp dụng nghiên cứu nhận thức quản lý dựa trên phân tích quan trọng của cả nhận thức quản lý về các yếu tố quyết định nghiên cứu báo cáo PTBV và đánh giá tác động của các nỗ lực GRI nhằm tăng về chất lượng cũng như số lượng báo cáo PTBV ở các nước đang phát triển. Đây cũng là nghiên cứu ủng hộ việc đánh giá sự cảm nhận của các nhà quản lý đến việc vận dụng và công bố báo cáo PTBV thay vì việc sử dụng các số liệu mang tính định lượng, dữ liệu thứ cấp để đánh giá vấn đề này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các nhân tố đào tạo, pháp luật, ban hành hướng dẫn, áp lực của các bên liên quan, chiến dịch nâng cao nhận thức, thị trường và áp lực công chúng được
xác định là một số yếu tố quyết định việc công bố báo cáo PTBV. Đánh giá tác động của các nỗ lực GRI cho thấy chúng có tác động hạn chế đến việc gia tăng việc công bố báo cáo PTBV ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu cần thiết để áp dụng nghiên cứu nhận thức quản lý về vấn đề công bố báo cáo PTBV trong khu vực các nước đang phát triển được xác định là cấp thiết.
Qua các nghiên cứu tiêu biểu được tác giả tóm lược theo trình tự thời gian và các quan điểm về công bố báo cáo PTBV, có thể thấy rằng ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa vấn đề PTBV và kế toán trong DN nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhưng cũng dần hình thành những quan điểm của nhà quản lý lợi dụng việc cung cấp thông tin trên báo cáo PTBV để bóp méo thông tin, phục vụ những lợi ích riêng cho cá nhân cũng như DN mình. Từ những nghiên cứu sơ khai ban đầu về PTBV trên phương diện bao gồm 3 yếu tố (Kinh tế, xã hội và môi trường) đến quan điểm với xu hướng mở rộng 5 yếu tố (Kinh tế, quản trị, xã hội, đạo đức và môi trường). Hơn nữa, xu hướng nghiên cứu cảm nhận của các nhà quản lý về vấn đề công bố báo cáo PTBV đã nhận được sự đồng ý bởi nhiều nhà nghiên cứu cũng như quản lý tại các doanh nghiệp. Các phát hiện của Tauringana (2020) góp phần kêu gọi làm cho nghiên cứu học thuật phù hợp hơn với việc xây dựng chính sách. Đặc biệt, đề xuất nghiên cứu cần thiết để cung cấp thông tin về việc áp dụng nghiên cứu thực hành dựa trên bằng chứng là cảm nhận của các nhà quản lý, nhằm giải quyết các thách thức về báo cáo PTBV ở các nước đang phát triển.
1.1.2 Các nghiên cứu trong nước
Trong thời gian qua, đã có một số DN có quy mô lớn tại Việt Nam thực hiện công bố báo cáo PTBV, điều này cho thấy vấn đề công bố báo cáo PTBV đang được các DN tại Việt Nam chú ý rất nhiều. Ngược lại, chúng ta có thể thấy một thực trạng là có rất ít tài liệu tham khảo, công trình khoa học trình bày về vấn đề này. Đi vào tìm hiểu cụ thể, các nghiên cứu trong nước có đề cập đến PTBV. Tác giả đã tập hợp, phân tích một số công trình liên quan.
Đầu tiên là đề tài nghiên cứu cấp bộ của Hà Huy Thành và cộng sự (2007), nghiên cứu đã khái quát các nội dung cơ bản về PTBV; quá trình hình thành và phát triển của khái niệm, khuôn khổ, chương trình hành động, chỉ tiêu liên quan đến
PTBV của Liên hiệp quốc và các quốc gia; khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm liên quan đến sự PTBV theo điều kiện thực tế tại Việt Nam. Nghiên cứu và trình bày khá đầy đủ và ở mức chi tiết cần thiết, khuôn khổ phát triển bền vững và chương trình phát triển bền vững toàn cầu của Liên hợp quốc, của các vùng, khu vực và của một số quốc gia tiêu biểu, bao gồm các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu đề tài này cho thấy, các nước hay các nhóm nước khác nhau có những cách tiếp cận lựa chọn và xây dựng chiến lược PTBV khác nhau.
Một nghiên cứu sâu hơn và đề cập nhiều đến vấn đề liên quan giữa PTBV và kế toán được thực hiện bởi Nguyễn Hữu Sở (2009) với nội dung là phát triển kinh tế hướng đến sự PTBV tại Việt Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra những kết quả được và chưa được trong việc thực hiện mục tiêu PTBV trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng nền kinh tế tại Việt Nam kể từ khi đất nước chúng ta đi theo mô hình kinh tế mới; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm phát triển hướng đến sự PTBV về mặt kinh tế trong thời gian tới tại Việt Nam. Bên cạnh việc đánh giá thực trạng phát triển kinh tế hướng đến sự bền vững, nghiên cứu đã chỉ những vấn đề về xã hội, văn hóa và môi trường cũng ảnh hưởng đến mục tiêu chiến lược trong việc PTBV của Việt Nam. Đây chính là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo liên quan đến PTBV và phát triển kinh tế hướng đến sự bền vững tại Việt Nam.
Huỳnh Đức Lộng (2016) đã trình bày cả hai mặt lý thuyết và thực trạng ứng dụng kế toán môi trường ở các quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải áp dụng kế toán môi trường cho Việt Nam. Từ việc khái quát hóa thực trạng áp dụng kế toán môi trường, CBTT về các mặt kinh tế và xã hội tại các quốc gia phát triển trên thế giới. Huỳnh Đức Lộng (2016) đã đề xuất để có thể áp dụng kế toán môi trường cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính quyền các cấp với việc thay đổi phù hợp hệ thống chính sách, pháp luật, doanh nghiệp phải áp dụng những chính sách bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những kiến nghị xoay quanh vấn đề cần phải có các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể áp dụng cho từng đơn vị sản xuất kinh doanh, từng loại hình doanh nghiệp cụ thể trong