Ba là, bài học về ngăn chặn hình thành các độc quyền trong kinh doanh xăng dầu,
Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trên thị trường, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao gồm: kiểm soát bằng các biện pháp điều tiết đối với những doanh nghiệp có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sát nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh.
Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp hoặc cung cấp hầu hết sản phẩm ra thị trường. Thông thường, trong các nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi ngành xăng dầu bị chi phối bởi một số rất ít các công ty lớn. Các công ty này có thể cấu kết với nhau thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các công ty nhỏ hơn, hoặc các công ty nước ngoài. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường, kể cả Mỹ, đều thông qua đạo luật chống độc quyền.
Bốn là, bài học về điều hành giá kinh doanh xăng dầu sát với giá thị trường.
Hiện nay, nhiều quốc gia vẫn thực hiện hỗ trợ giá xăng dầu (giá bán lẻ thấp hơn giá thành sản xuất) thông qua nhiều hình thức khác nhau do xăng dầu là mặt hàng chiến lược, là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành sản xuất. Tuy nhiên, xu hướng chung của các quốc gia là từng bước giảm bớt sự bảo hộ và can thiệp của chính phủ, đưa giá bán lẻ xăng dầu tiếp cận dần tới mức giá tự do của thị trường thế giới.
Trong điều hành giá và kinh doanh xăng dầu, các chính phủ đều tập trung vào một trong hai khâu: hoặc quản lý nguồn sản xuất, cung cấp sản phẩm (các nhà máy lọc dầu, các đầu mối nhập khẩu), hoặc quản lý hệ thống phân phối sản phẩm (các công ty kinh doanh phân phối).
Thực tế thị trường kinh doanh xăng dầu hiện nay cho thấy, với cơ chế giá do nhà nước quy định giá bán lẻ, điều chỉnh thông qua thuế xuất nhập khẩu và bù lỗ/bù
giá khi giá thế giới quá cao sẽ nảy sinh hiện tượng gian lận thương mại rất khó kiểm soát. Khi giá xăng dầu thị trường thế giới xuống thấp, nhà nước không hạ mức giá trần bán lẻ mà điều tiết lợi nhuận của các công ty kinh doanh bằng việc tăng thuế nhập khẩu. Nếu thuế nhập khẩu càng cao thì càng làm gia tăng động lực cho các hành động nhập lậu xăng dầu. Khi giá trên thị trường thế giới tăng cao, nhà nước sẽ giảm thuế nhập khẩu xăng dầu để đảm bảo lợi ích cho nhà phân phối. Tuy nhiên có những giai đoạn giá xăng dầu thế giới tăng quá cao nên mặc dù mức thuế nhập khẩu bằng 0% nhưng, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu vẫn lỗ do nhà nước không tăng giá bán lẻ để bình ổn giá, tránh những ảnh hưởng tiêu cực tới các ngành công nghiệp khác. Đồng thời nhà nước sẽ tính toán, bù lỗ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu và điều này dẫn tới việc xuất khẩu lậu xăng dầu ra nước ngoài. Vấn đề này xảy ra với hầu hết các quốc gia áp dụng cơ chế điều hành giá như trên.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Chức Năng Chủ Yếu Của Quản Lý Nhà Nước Với Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu .
- Sự Cần Thiết Đổi Mới Quản Lý Nhà Nước Về Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu Ở Việt Nam.
- Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu
- Thực Trạng Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu Ở Việt Nam
- Đổi mới quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 10
- Đánh Giá Về Hoạt Động Kinh Doanh Xăng Dầu Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 215 trang tài liệu này.
Như vậy, nhà nước không nên định giá mà có thể chỉ định hướng, tham gia điều tiết giá cùng với doanh nghiệp khi có những biến động về giá cả xăng dầu trên thị trường quốc tế. Chính sách giá định hướng sẽ là cơ sở để các công ty kinh doanh xăng dầu đưa ra giá bán. Giá định hướng được xác định dựa trên cơ sở giá thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Về nguyên tắc, giá xăng dầu trong nước cần được xác định so cho phù hợp với giá quốc tế, vừa phù hợp với mặt bằng giá cả trong nước, đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp, đảm bảo lợi ích quốc gia và lợi ích của người tiêu dùng.
Năm là, bài học về sử dụng chính sách thuế và áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng xăng dầu.
Về chính sách thuế đối với mặt hàng xăng dầu, các quốc gia đều áp dụng thuế suất ổn định và tương đối thấp đối với các sản phẩm dầu khí. Việc áp dụng thuế suất ổn định góp phần ổn định nguồn thu của nhà nước, và các doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc quyết định giá bán xăng dầu. Tuy nhiên, nếu áp dụng thuế suất cố định, trong khi giá cả xăng dầu trên thị trường nội địa biến động theo sự biến động của giá xăng dầu quốc tế, sẽ tạo ra sức ép buộc người tiêu dùng trong việc điều chỉnh mức độ tiêu dùng xăng dầu.
Hạn ngạch nhập khẩu, hầu hết các quốc gia đều có xu hướng xóa bỏ việc áp
dụng biện pháp hạn chế định lượng đối với nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu.
Sáu là, bài học về tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh xăng dầu.
Để đảm bảo an ninh năng lượng, các quốc gia kiểm soát chặt chẽ việc kinh doanh xăng dầu bằng việc đưa ra các chính sách quản lý hoạt động kinh doanh, chính sách thuế, chính sách giá và dự trữ quốc gia...v.v. Tuy nhiên, Hiện nay các quốc gia đang từng bước tiến hành tự do hóa hoạt động kinh doanh xăng dầu bằng cách cho phép sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vào thị trường rộng rãi hơn, bắt đầu từ thị trường bán lẻ.
Tóm tắt chương 1:
Chương 1 hệ thống lý luận về kinh doanh xăng dầu, làm rõ khái niệm xăng dầu, kinh doanh xăng dầu, trong các hoạt động kinh doanh xăng dầu tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm xuất nhập khẩu, phân phối xăng dầu, cụ thể hóa nhận thức về những khái niệm này trong điều kiện Việt Nam.
Điểm nổi bật trong chương 1 là tác giả đã tập trung làm rõ chức năng, nội dung quản lý nhà nước và sự cần thiết đổi mới quản lý nhà nước về kinh doanh xăng dầu trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Trong chương này, tác giả đã nghiên cứu kinh nghiệm quản lý của một số nước như Trung Quốc, Indonesia, Philipines, Thái Lan, Hàn Quốc và Mỹ từ đó rút ra sáu bài học cần thiết cho Việt Nam trong công tác quản lý nhà nước hoạt động kinh doanh xăng dầu.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát về sự phát triển thị trường và quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam
2.1.1 Các giai đoạn phát triển của thị trường xăng dầu và quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản Nhà nước vẫn giữ vai trò độc quyền trong hoạt động xuất nhập khẩu sản phẩm xăng dầu thông qua hệ thống các doanh nghiệp nhà nước được cấp phép thực hiện hoạt động trong lĩnh vực này.
Nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh xăng dầu và điều chỉnh thị trường xăng dầu chủ yếu dưới hai hình thức là trực tiếp và gián tiếp. Cụ thể là:
Hình thức quản lý trực tiếp bao gồm các hoạt động kiểm soát đầu vào thông qua việc quản lý các hạn ngạch nhập khẩu cho các doanh nghiệp nhập khẩu là các doanh nghiệp nhà nước. Hàng năm số lượng xăng dầu nhập khẩu của các doanh nghiệp nhà nước được phép nhập khẩu trực tiếp được điều chỉnh bởi các hạn ngạch nhập khẩu do Bộ Thương mại trước đây và nay là Bộ Công thương phân bổ và ban hành. Hạn ngạch này trước đây giới hạn ở mức tối đa cho phép nhập khẩu và điều chỉnh theo giới hạn mức nhập khẩu bắt buộc tối thiểu. Bên cạnh đó, hình thức quản lý trực tiếp còn được thể hiện thông qua việc nhà nước ấn định mức giá và thuế trực thu để kiểm soát trực tiếp hoạt động của thị trường.
Hình thức quản lý gián tiếp thể hiện qua việc áp đặt các mức phụ phí cho hoạt động kinh doanh và sử dụng xăng dầu để điều chỉnh hành vi tiêu dùng. Đồng thời, chính phủ còn đề ra các quy định chặt chẽ đối với các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xăng dầu nhỏ lẻ trên thị trường. Bên cạnh đó, việc quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ kế hoạch dự trữ và hệ thống kho cảng của các doanh nghiệp kinh doanh, vận chuyển xăng dầu cũng như điều kiện kinh doanh xăng dầu của Chính phủ cũng là một hình thức quản lý gián tiếp được thực hiện khá phổ biến trong thời gian qua.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường xăng dầu và quản lý Nhà nước về kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam được phân chia theo 4 giai đoạn để nghiên cứu. Các giai đoạn này của thị trường được phân chia dựa trên cơ sở sự khác biệt về nguồn cung cấp xăng dầu, đối tượng kinh doanh và cung cấp xăng dầu, cũng như hình thức phân phối và bán xăng dầu trên thị trường.
2.1.1.1 Giai đoạn từ 1988 trở về trước
Trong giai đoạn này chỉ có một nguồn cung cấp xăng dầu từ Liên Xô cũ. Đồng thời, vai trò kinh doanh của Tổng công ty xăng dầu khá mờ nhạt chỉ dừng lại ở chức năng của cơ quan phân phối xăng dầu theo cơ chế bao cấp. Thị trường thuần túy hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Trong thời kỳ này, mặt hàng xăng dầu được xác định là loại vật tư chiến lược do Nhà nước trực tiếp phân phối, quy định giá bán và quản lý sử dụng. Tổng cân đối cung cầu xăng dầu hàng năm cho nền kinh tế quốc dân được duy trì trên cơ sở các Hiệp định ký với Liên Xô cũ.
Hoạt động cung ứng xăng dầu được tổ chức được thực hiện qua một doanh nghiệp đầu mối duy nhất là Tổng Công ty Xăng dầu (thuộc Bộ Vật tư cũ). Hoạt động phân phối được thực hiện trên cơ sở chỉ tiêu phân phối của Nhà nước phân bổ hằng năm. Mặt hàng dầu hoả là nguồn chất đốt chính của người dân khu vực đô thị và nguyên liệu thắp sáng của người dân khu vực nông thôn. Việc tổ chức phân phối và tiêu thụ được thực hiện thông qua hệ thống các Công ty thương nghiệp từ Trung ương (Công ty dầu lửa TW - cấp 1) đến các Công ty thương nghiệp địa phương (cấp 2, cấp 3).
Phương thức phân phối xăng dầu trong thời kỳ này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức: phân chia khối lượng xăng dầu cho các hộ sử dụng theo chỉ tiêu đến từng đối tượng.
Việc tổ chức tiếp nhận, vận tải và cung ứng xăng dầu được giao cho Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam tổ chức thực hiện.
Giá bán xăng dầu được Nhà nước quy định thống nhất một mức giá đối với các mặt hàng xăng dầu và áp dụng cho mọi đối tượng trên tất cả các địa bàn.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước (nay là Ban Vật giá Chính phủ) là cơ quan được
HIỆP ĐỊNH XD VỚI LIÊN XÔ CŨ
UB VẬT GIÁ NN
UBKHNN
BỘ NỘI THƯƠNG
BỘ NGOẠI THƯƠNG
giao nhiệm vụ công bố giá, xác định chiết khấu được hưởng đối với các doanh nghiệp cung ứng, tiêu thụ bao gồm Tổng Công ty Xăng dầu, Công ty Dầu lửa Trung ương và Công ty Thương nghiệp các địa phương làm nhiệm vụ bán dầu hoả.
BỘ VẬT TƯ
CTY DẦU LỬA TW
TCTY XĂNG DẦU
TCTY KHOÁNG SẢN
CÁC CTY CẤP 2, CẤP 3
CÁC CTY XĂNG DẦU
CÁC CTY VẬT TƯ TỈNH
CÁC KHÁCH HÀNG THEO CHỈ TIÊU
(Nguồn: Báo cáo tổng quan phát triển thị trường xăng dầu – Bộ Thương mại. 2002)
Hình 2.1 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu đến tháng 11/1988 [6]
2.1.1.2 Giai đoạn từ 1988 - 1993
Ở giai đoạn này thị trường xăng dầu ngoài nguồn cung xăng dầu từ Nhà nước đã xuất hiện thêm nguồn cung xăng dầu từ các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó, vai trò kinh doanh của Tổng công ty xăng dầu dần được thể hiện trong việc điều phối nhu cầu xăng dầu trên thị trường. Đây là giai đoạn tiền đề cho thị trường xăng dầu hoạt động theo cơ chế cung cầu.
Từ tháng 12/1988, bộ phận nhập khẩu xăng dầu của Tổng Công ty Khoáng sản (thuộc Bộ Ngoại thương) được sát nhập về Tổng Công ty Xăng dầu (quyết định số 279/CT ngày 29/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, nay là Chính phủ). Từ thời điểm này, hệ thống nhập khẩu và phân phối xăng dầu được thống nhất trong một đầu mối quản lý là Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam. Đây là bước đi quan trọng để Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam tiếp cận giao dịch đối ngoại, làm tiền đề tiến tới quá trình đàm phán đổi dầu thô và mua bán sản phẩm dầu trong các giai đoạn sau.
HIỆP ĐỊNH XD VỚI LIÊN XÔ CŨ
UBKHNN
BỘ NỘI THƯƠNG
CTY DẦU LỬA TW
CÁC CTY XĂNG DẦU
CÁC CTY VẬT TƯ TỈNH
CÁC KHÁCH HÀNG THEO CHỈ TIÊU
CÁC CTY CẤP 2, CẤP 3
BỘ VẬT TƯ
BỘ NGOẠI THƯƠNG
TCTY XĂNG DẦU
(Nguồn: Báo cáo tổng quan phát triển thị trường xăng dầu – Bộ Thương mại. 2002)
Hình 2.2 Mô hình hoạt động cung ứng xăng dầu thời kỳ 1988-1993 [6]
Trong giai đoạn này, việc cung cấp nguồn xăng dầu theo Hiệp định với Liên xô cũ gặp nhiều khó khăn do tiến độ giao hàng không đồng đều dẫn đến những khó khăn nhất định đối với hoạt động cung ứng xăng dầu cho các hộ tiêu thụ.
Do vậy, ở giai đoạn cuối của Hiệp định do khả năng giao đủ hàng theo Hiệp định của đối tác gặp khó khăn, việc cung cấp xăng dầu được thực hiện trên cơ sở Hiệp định đổi dầu thô lấy sản phẩm giữa Việt Nam và Liên xô cũ theo phương thức: “Phần sản phẩm Việt nam được hưởng theo Hiệp định sẽ không nhập khẩu về Việt nam, được Chính phủ Liên xô bán cho một nước khác. Thay vào đó, Việt nam được nhận bằng dầu thô của Liên doanh Dầu khí Việt Xô (phần dầu thô phía Liên xô chia theo Hợp đồng Liên doanh). Số dầu thô này được Liên xô xuất khẩu và trả Tổng Công ty Xăng dầu quyền sử dụng ngoại tệ tại Bộ Tài chính” [6]. Đây là nguồn ngoại tệ đầu tiên Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam được sử dụng để trực tiếp ký hợp đồng nhập khẩu xăng dầu từ thị trường khu vực II (cách gọi đối với các nước tư bản trước đây). Đây có thể
được coi là hoạt động nhập khẩu xăng dầu đầu tiên của doanh nghiệp Việt Nam thực hiện dựa theo cơ chế thị trường.
Thị trường xăng dầu ở Việt Nam được thực sự hình thành từ cuối những năm 1989. Thời kỳ này, Nhà nước chủ trương trả xăng dầu cho người xuất khẩu. Trên thực tế, hầu hết những doanh nghiệp xuất khẩu đều cần tiền để thanh toán cho hoạt các động thu mua gia công hàng hóa xuất khẩu. Vì vậy, toàn bộ lượng xăng dầu này một lần nữa được đưa trở lại cho những người lưu thông xăng dầu (không chỉ là các Công ty Nhà nước) để cung ứng cho các nhu cầu khác. Do đó, vào thời điểm này trên thị trường đã hình thành 2 nguồn cung xăng dầu chủ yếu bao gồm:
Nguồn xăng dầu phân phối theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, giá bán do Nhà nước quy định và được thực hiện qua một đầu mối là Tổng Công ty Xăng dầu.
Nguồn xăng dầu của người xuất khẩu được Nhà nước trả (thay thế việc thanh toán bằng tiền Việt nam). Trên thực tế, những người xuất khẩu không có nhu cầu sử dụng xăng dầu nên buộc phải bán lại cho một số người phân phối trung gian khác để cung cấp cho người tiêu dùng cuối cùng. Từ thực tế này đã giúp một số doanh nghiệp nâng cao nhận thức, nắm bắt được sự vận động tất yếu của thị trường xăng dầu trong tương lai sẽ có nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh từ chính nguồn xăng dầu này.
Sự hình thành các tổ chức kinh doanh xăng dầu khác nhau, từ nhập khẩu đến lưu thông trên thị trường ở thời kỳ này; trước hết, đã tạo ra một hệ thống phân phối kinh doanh xăng dầu có tính chất tự phát dưới dạng quan hệ cung cầu mang tính chất sơ khai, mức độ cạnh tranh chưa thể hiện rõ. Qua quá trình hình thành và phát triển, thị trường xăng dầu đã trở thành một hệ thống hoàn chỉnh với các doanh nghiệp có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh đảm bảo cho quá trình hoạt động từ khâu nhập khẩu đến lưu thông diễn ra độc lập và cạnh tranh với nhau, tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện để có khả năng cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường.