Phân Tích Phương Sai Các Chỉ Số Chất Lượng Thể Chế Theo Nhóm Thu Nhập


3.4.1.2. Phân tích phương sai các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu nhập

Bảng 3.4 trình bày trung bình các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu nhập. Theo đó, các nhóm thu nhập được xác đinh dựa trên GDP bình quân đầu người của tỉnh. Đối với nhóm chỉ số “thiết chế pháp lý, chi phí thời gian, sự năng động tiên phong của chính quyền tỉnh, thủ tục hành chính công”, kết quả cho thấy nhóm địa phương có thu nhập cao sẽ có điểm số trung bình cao nhất, nhóm thu nhập thấp có điểm số thấp hơn. Điều này gợi ý về ảnh hưởng của trình độ phát triển địa phương đối với các biến số chất lượng thể chế. Đối với chỉ số “chi phí không chính thức” thì kết quả cho ngược lại, các tỉnh thuộc nhóm thu nhập cao lại có chỉ số “chi phí không chính thức” trung bình thấp hơn nhóm thu nhập thấp, và nhóm có mức thu nhập trung bình lại có điểm số “chi phí không chính thức” thấp nhất. Tương tự chỉ số “Kiểm soát tham nhũng”, nhóm thu nhập trung bình có chỉ số tốt hơn nhóm thu nhập cao.

Bảng 3.4: Trung bình các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu nhập



Nhóm

thu nhập thấp

Nhóm thu nhập trung bình

Nhóm

thu nhập cao

Chi phí không chính thức

5.98

5.64

5.90

Thiết chế pháp lý

4.54

5.45

5.60

Chi phí thời gian

6.04

6.54

6.61

Sự năng động tiên phong của chính quyền tỉnh


4.81


5.06


5.27

PCI

56.65

58.97

61.62

Kiểm soát tham nhũng

5.90

6.21

6.10

Thủ tục hành chính công

6.95

7.10

7.16

PAPI

35.83

37.45

39.51

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 161 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế địa phương tại Việt Nam - 13

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.5 phân tích phương sai các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu nhập. Kết quả cho thấy hệ số P_value lớn hơn 0.05 ở tất cả các nhóm chỉ số. Do đó, có sự khác biệt về “chất lượng thể chế” ở các nhóm thu nhập khác nhau.


Bảng 3.5: Phân tích phương sai chất lượng thể chế theo nhóm thu nhập



Sum of squares (SS)


Df

Mean squares (MS)


F


p-value

Chi phí không chính thức

Model

6.62

2.00

3.31

3.61

0.03

Region

6.62

2.00

3.31

3.61

0.03

Residual

285.77

312.00

0.92



Thiết chế pháp lý

Model

69.99

2.00

35.00

27.88

0.00

Region

69.99

2.00

35.00

27.88

0.00

Residual

391.66

312.00

1.26



Chi phí thời gian

Model

20.13

2.00

10.06

13.09

0.00

Region

20.13

2.00

10.06

13.09

0.00

Residual

239.87

312.00

0.77



Sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh

Model

10.79

2.00

5.39

4.91

0.01

Region

10.79

2.00

5.39

4.91

0.01

Residual

343.00

312.00

1.10



PCI

Model

1298.78

2.00

649.39

47.23

0.00

Region

1298.78

2.00

649.39

47.23

0.00

Residual

4289.55

312.00

13.75



Kiểm soát tham nhũng

Model

3.31

2.00

1.65

4.62

0.01

Region

3.31

2.00

1.65

4.62

0.01

Residual

87.66

245.00

0.36



Thủ tục hành chính công

Model

1.50

2.00

0.75

8.03

0.00

Region

1.50

2.00

0.75

8.03

0.00

Residual

23.11

247.00

0.09



PAPI

Model

495.76

2.00

247.88

10.41

0.00

Region

495.76

2.00

247.88

10.41

0.00

Residual

5881.37

247.00

23.81



Nguồn: Tính toán của tác giả


3.4.1.3. Phân tích phương sai các chỉ số “chất lượng thể chế” với nhóm thu hút FDI

Bảng 3.6 trình bày trung bình các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu hút FDI. Các nhóm thu hút FDI được xác đinh dựa trên FDI thu hút bình quân đầu người của tỉnh. Theo đó, các địa phương được chia thành 3 nhóm: nhóm thu hút FDI cao, nhóm thu hút trung bình và nhóm thu hút FDI thấp. Kết quả cho thấy tất cả các chỉ số “chi phí không chính thức”, “thiết chế pháp lý”, “chi phí thời gian”, “sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh”, “chỉ số PCI tổng hợp” đều có có điểm số cao ở các tỉnh có khả năng thu hút FDI cao, và điểm số thấp ở các tỉnh có khả năng thu hút FDI thấp.

Bảng 3.6: Trung bình các chỉ số chất lượng thể chế theo nhóm thu hút FDI



Nhóm thu hút FDI thấp

Nhóm thu hút FDI trung bình


Nhóm thu hút FDI cao

Chi phí không chính thức

5.80

5.84

5.88

Thiết chế pháp lý

5.09

5.23

5.27

Chi phí thời gian

6.24

6.43

6.51

Sự năng động tiên phong của chính quyền tỉnh


4.99


4.98


5.17

PCI

57.72

59.15

60.36

Kiểm soát tham nhũng

5.99

6.235

6.08

Thủ tục hành chính công

7.04

7.09

7.14

PAPI

37.42

37.88

38.39

Nguồn: Tính toán của tác giả

Bảng 3.7 cho thấy chỉ có chỉ số “PCI tổng hợp” và chỉ số “kiểm soát tham nhũng” có giá trị P_value nhỏ hơn 0.05, chỉ số “chi phí thời gian” có P-value nhỏ hơn 0.1 và các chỉ số còn lại có P-value lớn hơn 0.05. Do đó, có thể kết luận rằng không có nhiều sự khác biệt về điểm số của các “chỉ số chất lượng thể chế” (“chi phí không chính thức”, “thiết chế pháp lý”, “sự năng động của chính quyền tỉnh”, “thủ tục hành chính công”) giữa 3 nhóm thu hút FDI.


Bảng 3.7: Phân tích phương sai chất lượng thể chế theo nhóm thu hút FDI



Sum of squares (SS)


df

Mean squares (MS)


F


p-value

Chi phí không chính thức

Model

0.40

2.00

0.20

0.21

0.81

Region

0.40

2.00

0.20

0.21

0.81

Residual

291.99

312.00

0.94



Thiết chế pháp lý

Model

2.03

2.00

1.02

0.69

0.50

Region

2.03

2.00

1.02

0.69

0.50

Residual

459.63

312.00

1.47



Chi phí thời gian

Model

3.96

2.00

1.98

2.41

0.09

Region

3.96

2.00

1.98

2.41

0.09

Residual

256.04

312.00

0.82



Sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh

Model

2.43

2.00

1.22

1.08

0.34

Region

2.43

2.00

1.22

1.08

0.34

Residual

351.35

312.00

1.13



PCI

Model

367.52

2.00

183.76

10.98

0.00

Region

367.52

2.00

183.76

10.98

0.00

Residual

5220.81

312.00

16.73



Kiểm soát tham nhũng

Model

2.16

2.00

1.08

2.98

0.05

fdi3level

2.16

2.00

1.08

2.98

0.05

Residual

88.81

245.00

0.36



Thủ tục hành chính công

Model

0.39

2.00

0.20

2.00

0.14

fdi3level

0.39

2.00

0.20

2.00

0.14

Residual

24.22

247.00

0.10



PAPI

Model

39.31

2.00

19.65

0.77

0.47

fdi3level

39.31

2.00

19.65

0.77

0.47

Residual

6337.82

247.00

25.66



Nguồn: Tính toán của tác giả


Tóm lại, các phân tích phương sai cho thấy có sự khác biệt về chất lượng thể chế giữa các vùng. Nhóm địa phương có thu nhập cao sẽ có điểm số chất lượng thể chế trung bình cao nhất, nhóm thu nhập thấp có điểm số thấp hơn. Điều này phản ánh ảnh hưởng của trình độ phát triển địa phương đối với các biến số chất lượng thể chế. Bên cạnh đó, các tỉnh thuộc nhóm thu nhập cao lại có chỉ số “chi phí không chính thức” trung bình thấp hơn nhóm thu nhập thấp, và nhóm có mức thu nhập trung bình lại có điểm số “chi phí không chính thức” thấp nhất. Tương tự, ở chỉ số “Kiểm soát tham nhũng” nhóm thu nhập trung bình có chỉ số tốt hơn nhóm thu nhập cao. Ngoài ra, các tỉnh có khả năng thu hút FDI cao đều có có điểm số cao đối với tất cả các chỉ số chất lượng thể chế và các tỉnh có khả năng thu hút FDI thấp thì điểm số ở các chỉ tiêu chất lượng thể chế cũng thấp.

3.4.2. Phân tích tương quan

Bảng 3.8 trình bày kết quả phân tích tương quan giữa các “chỉ số chất lượng thể chế” và biến “GDP bình quân đầu người” của các địa phương. Kết quả cho thấy, các chỉ số “thiết chế pháp lý”, “chi phí thời gian”, “sự năng động và tiên phong” của chính quyền tỉnh”, “PCI tổng hợp”, và “PAPI tổng hợp” đều tương quan dương và có ý nghĩa thống kê dưới 10% với GDP bình quân đầu người. Tuy nhiên, các hệ số tương quan không cao (PCI có hệ số tương quan cao nhất là 0.29, các chỉ số còn lại có hệ số tương quan dưới 0.2). Các chỉ số khác như “kiểm soát tham nhũng”; “chi phí không chính thức”, và “thủ tục hành chính công” không tương quan với biến “GDP bình quân” hay “trình độ phát triển” của địa phương.

Bảng 3.8: Phân tích tương quan chỉ số chất lượng thể chế và GDP bình quân đầu người




Chi phí không chính thức

Thiết chế pháp lý

Chi phí thời gian

Sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh


PCI

Kiểm soát tham nhũng

Thủ tục hành chính công


PAPI

GDP

bình quân

Hệ số tương quan

0.02

0.15

0.11

0.10

0.29

-0.02

0.02

0.12

P-value

0.75

0.01

0.06

0.09

0.00

0.74

0.75

0.05

Trình độ

giáo dục

Hệ số tương quan

-0.12

-0.06

-0.06

-0.14

0.17

-0.13

0.17

0.16

P-value

0.03

0.28

0.33

0.02

0.00

0.04

0.01

0.01

Bất bình

đẳng

Hệ số tương quan

-0.11

0.19

0.01

0.00

0.08

-0.07

0.14

0.13

P-value

0.05

0.00

0.81

0.98

0.17

0.31

0.03

0.04

Tỷ lệ hộ sử dụng Internet

Hệ số tương quan

0.0269

0.4425

0.2891

0.2600

0.5756

0.3180

0.5807

0.6319

P-value

0,632

0.00

0.00

0.00

0.00

0.00

0.00

0.00

Nguồn: Tính toán của tác giả


Bảng 3.8 cũng cho biết mối tương quan giữa các chỉ số “chất lượng thể chế” với biến “trình độ giáo dục”. Trình độ giáo dục ở đây được tính là tỷ lệ dân số có trình độ từ phổ thông trung học, trung cấp nghề trở lên. Kết quả cho thấy chỉ có “chỉ số PCI tổng hợp”, “chỉ số thủ tục hành chính công” và “PAPI tổng hợp” có tương quan dương và có ý nghĩa thống kê. Các chỉ số “chi phí không chính thức” và “Sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh” lại tương quan âm và có ý nghĩa thống kê. Như vậy, không có sự thống nhất trong mối tương quan giữa các chỉ số “chất lượng thể chế” với biến số “trình độ giáo dục”.

Đối với biến số bất bình đẳng (được tính bằng chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất theo ngũ phân vị), chỉ có các chỉ số “chi phí không chính thức”, “thủ tục hành chính công”, và “PAPI tổng hợp” có tương quan và có ý nghĩa thống kê. Chỉ số “chi phí không chính thức” có tương quan âm với biến số bất bình đẳng. Nhìn chung, theo kết quả kiểm định thì bất bình đẳng ít tương quan với các chỉ số chất lượng thể chế.

Đối với biến số “tỷ lệ hộ sử dụng internet” cho thấy hầu hết có tương quan dương (có ý nghĩa thống kê mức 1%), trừ biến chỉ số chi phí không chính thức.

Nhìn chung, các phân tích thống kê chưa khẳng định được tác động, ảnh hưởng của các biến số đến chất lượng thể chế, nhưng cũng đã gợi mở ra mối quan hệ giữa các chỉ số “chất lượng thể chế” và các biến số xem xét cho việc xây dựng mô hình đánh giá các yếu tốt ảnh hưởng đến chất lượng thể chế địa phương ở phần 4.1. Dựa trên kết quả phân tích thống kê, một số kết luận được rút ra như sau:

Thứ nhất, có sự khác biệt và chênh lệch về chất lượng thể chế giữa các vùng. Đồng bằng Sông Cửu Long có chỉ số chất lượng thể chế trung bình tốt nhất trong giai đoạn xem xét.

Thứ hai, phân tích phương sai và tương quan cho thấy “trình độ phát triển” (tính bằng GDP bình quân đầu người) các địa phương và chất lượng thể chế có mối quan hệ với nhau. Tuy nhiên dấu (tương quan thuận hay tương quan nghịch) của các hệ số tương quan không thống nhất. Nhưng phần lớn thì địa phương có thu nhập bình quân cao sẽ có chỉ số chất lượng thể chế cao.

Thứ ba, phân tích phương sai cho thấy có sự chênh lệch về chất lượng thể chế với các nhóm địa phương có các mức độ thu hút FDI khác nhau.

Thứ tư, trình độ giáo dục và mức độ bất bình đẳng có tương quan với các chỉ số chất lượng thể chế với mức độ và chiều tương quan khác nhau.

Thứ năm, tiếp cận internet có tương quan dương đối với hầu hết các chỉ số chất lượng thể chế.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Trên cơ sở phân tích thực trạng môi trường thể chế của Việt Nam thông qua các bộ chỉ số đo lường chất lượng thể chế/quản trị quốc tế và Việt Nam và phân tích thực trạng phát triển tại các địa phương ở chương 3 có thể rút ra một số kết luận như sau:

a) Sự tuân thủ các thể chế được thiết lập để điều chỉnh các tương tác kinh tế và xã hội giữa công dân và nhà nước

Đối với vấn đề “kiểm soát tham nhũng”, chuỗi thời gian của các các chỉ số “tham nhũng” trong các bộ chỉ số quốc tế (WGI, GCI) và bộ chỉ số chất lượng thể chế cấp tỉnh (PAPI, PCI) đều chỉ ra vấn đề “kiểm soát tham nhũng” của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2019 không có nhiều sự cải thiện. Điểm số “kiểm soát tham nhũng” vẫn thấp hơn mức trung bình của thế giới (WGI, GCI). Tỷ lệ người dân và doanh nghiệp quan ngại về vấn đề tham nhũng vẫn rất cao. “Kiểm soát tham nhũng” được xem là chỉ số phản ánh rất lớn chất lượng thể chế, do vậy giải quyết được vấn đề tham nhũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng thể chế chung.

Đối với vấn đề “Nhà nước pháp quyền” (rule of law) (hay “mức độ mà các chủ thể tuân thủ các quy tắc của xã hội, và đặc biệt là chất lượng của luật pháp trong việc thực thi hợp đồng, quyền sở hữu”), số liệu từ bộ chỉ số WGI chỉ ra chỉ số nhà nước pháp quyền có nhiều cải thiện từ năm 1996-2016, chỉ số đã vượt qua mức trung bình của thế giới và bắt kịp một số nước trong khu vực. Tuy nhiên, chỉ số có giảm nhẹ trong năm 2016-2019. Tương tự, chỉ số “thiết chế pháp lý” của bộ PCI (thay thế cho “chỉ số nhà nước pháp quyền”) cũng chỉ ra sự cải thiện trong niềm tin của doanh nghiệp đối với “khả năng bảo vệ của pháp luật đối với vấn đề bản quyền và thực thi hợp đồng”. Nhìn chung, chất lượng của luật pháp về thực thi hợp đống, quyền sở hữu của Việt Nam đã có sự cải thiện trong những năm qua.

b) Khả năng xây dựng và thực thi chính sách của chính phủ

Đối với vấn đề về “hiệu lực của chính phủ”, chỉ số “hiệu lực của chính phủ” trong bộ WGI chỉ ra có sự cải thiện trong giai đoạn 2016-2019 và vượt lên trên chỉ số trung bình của thế giới giai đoạn 1996-2019. Như vậy, có sự cải thiện rõ rệt trong “chất lượng dịch vụ công, chất lượng hoạt động của cơ quan chính phủ, chất lượng chính sách và thực thi chính sách, độ tin cậy của các cam kết” của Việt Nam. Tuy nhiên, xét riêng về “hành chính công” các chỉ số “thủ tục hành chính công” của PAPI, “chi phí thời gian”, và “chi phí gia nhập thị trường của PCI” thì vấn đề về chất lượng “hành chính công” ở cấp địa phương của Việt Nam chưa có nhiều cải thiện, thậm chí


có những khía cạnh còn xấu đi. Ở góc độ doanh nghiệp, điểm sáng trong cải cách thủ tục hành chính là “chi phí ra nhập thị trường” (thời gian đăng ký thành lập doanh nghiệp, thời gian doanh nghiệp chờ đợi để hoạt động chính thức) đã giảm xuống. Tuy nhiên, thời gian để giải quyết các thủ tục hành chính khác thì không được cải thiện. Ở góc độ người dân, các thủ tục hành chính tục liên quan đến “chứng thực xác nhận”, “Giấy phép xây dựng”, “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”…vv chưa có nhiều thay đổi trong 10 năm qua.

Đối với vấn đề “chất lượng của các quy định”, chỉ số “chất lượng các quy định” của WGI cho thấy có sự cải thiện nhưng khá chậm chạp, mặt khác vẫn dưới mức trung bình của thế giới. Như vậy, năng lực xây dựng và thực thi chính sách hỗ trợ cho khu vực tư nhân của Việt Nam còn khá yếu. Tuy nhiên, chỉ số “sự năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh” của bộ chỉ số PCI cho thấy ở cấp độ địa phương cũng cho thấy được sự cải thiện trong “xây dựng và thực thi” chính sách phát triển khu vực tư nhân. Tuy nhiên, mức độ cải thiện còn chưa cao và nhiều chỉ số thành phần còn yếu.

Đối với vấn đề “tính công khai, minh bạch”, các chỉ số trong cả PCI và PAPI đều chỉ ra tính công khai, minh bạch thông tin, và sự dễ đoán định trong việc thực thi pháp luật của chính quyền tỉnh dù có cải thiện, nhưng mặt bằng chung là còn yếu. Điều này dẫn đến sự bất đối xứng về mặt thông tin, gây ra các rủi ro và chi phí giao dịch lớn cho doanh nghiệp.

c) Thực trạng phát triển của các địa phương

Cùng với sự phát triển chung của cả nước, mức độ gia tăng hàng năm thu nhập bình quần trên đầu người của các địa phương cho thấy sự phát triển kinh tế tại các địa phương ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, sự phát triển này không đồng đều giữa các vùng và địa phương. Ngoài ra, có sự cải thiện rõ rệt về khả năng thu hút FDI cũng như mức độ bao phủ internet tại nhiều tỉnh/thành phố, cùng với đó, giáo dục cũng được quan tâm nhiều hơn tại các địa phương.

Các phân tích phương sai và phân tích tương quan cho thấy có mối quan hệ giữa các biến số đến các chỉ số đo lường chất lượng thể chế địa phương. Điều này góp phần gợi mở cho việc xây dựng mô hình đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thể chế được thực hiện trong chương 4.

Xem tất cả 161 trang.

Ngày đăng: 04/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí