Thứ 2: Bán nợ để thu hồi vốn
Sau khi sáp nhập các ngân hàng sẽ rà soát lại nợ xấu và tiến hành bán các khoản nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), từ đó củng cố quy mô vốn để phát triển bền vững.
5.2.1.3 Một số khuyến nghị khi các ngân hàng triển khai giải pháp
Để tăng VCSH cho chính các ngân hàng thì hơn ai hết, chính các ngân hàng phải chủ động thực hiện kế hoạch chi tiết để đảm bảo cho quy mô vốn tăng trong thời gian tới:
Rà soát lại các khoản nợ xấu, sau đó đánh giá khoản nợ xấu đó ở mức độ nào, khoản nào có thể chuyển thành vốn góp, vốn cổ phần được.
Khi thực hiện sáp nhập với các ngân hàng khác thì phải đặt lợi ích chung của cả hệ thống ngân hàng lên trên hết, không vì lợi ích của cá nhân các ngân hàng riêng lẻ, như thế sớm thì muộn đối thủ cạnh tranh cũng sẽ thâu tóm và lúc đó còn thiệt hại nhiều hơn.
5.2.2 Tăng tính thanh khoản cho các NHTMCP Việt Nam
5.2.2.1 Mục tiêu giải pháp
Như đã phân tích ở chương 4, khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam giảm dần qua các năm và cũng theo kết quả hồi quy thì đây là nhân tố có tác động ngược chiều với CTTC của các NHTMCP Việt Nam, nghĩa là khi tính thanh khoản tăng thì tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các ngân hàng giảm và ngược lại, do đó mục tiêu của giải pháp này là làm tăng tính thanh khoản cho các NHTMCP Việt Nam từ đó giảm tỷ số đòn bẩy tài chính cho các ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Huy Động Vốn Trong Tổng Nợ Của 25 Nhtmcp Việt Nam Từ Năm 2007-2014
- Kết Quả Thống Kê Mô Tả Các Biến Độc Lập Và Phụ Thuộc
- Giải Pháp Vận Dụng Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Việc Hoàn Thiện Cấu Trúc Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Việt Nam
- Các nhân tô ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 10
- Các nhân tô ảnh hưởng đến cấu trúc tài chính của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
5.2.2.2 Biện pháp thực hiện
Thứ 1: Thực hiện tốt việc tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTMCP Việt Nam sẽ làm tăng tính thanh khoản cho các ngân hàng
Thứ 2: Đảm bảo chất lượng tín dụng
- Qua số liệu đã phân tích, một trong những yếu tố tạo nên rủi ro tín dụng đó là quá trình thẩm định cho vay (liên quan đến quy trình và con người), do đó cần xem xét lại quy trình thẩm định, các điểm sơ hở của quy trình cần phải
được khắc phục; cán bộ tín dụng cũng cần quán triệt đạo đức nghề nghiệp, tránh tình trạng thổi phồng giá trị tài sản định giá cho vay, hoặc bỏ qua những rủi ro đã lường trước vì lợi ích cá nhân.
- Hiện tại các ngân hàng đang tồn tại nợ xấu rất cao do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản là hiện tại các doanh nghiệp vay vốn đang gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh, kinh doanh không hiệu quả,sử dụng tiền vay không đúng mục đích,.. mặt khác các doanh nghiệp này nguồn vốn của họ chủ yếu là vốn vay ngân hàng, càng khó khăn họ lại tiếp tục vay. Những đối tượng này các ngân hàng cần xem xét kỹ và cần hạn chế cho vay khi chưa giải quyết xong nợ xấu.
- Tăng cường huy động vốn để nâng cao hiệu quả kinh doanh đồng thời cải thiện khả năng thanh khoản tạm thời
Thứ 3: NHNN tái cấp vốn đối với các NHTMCP thiếu hụt thanh khoản tạm thời để đảm bảo khả năng chi trả cho các NHTMCP và có thể trở lại hoạt động bình thường
Thứ 4: NHNN phải giám sát chặt chẽ tình hình tài chính của các NHTMCP Việt Nam và đặc biệt là ngân hàng được tái cấp vốn bằng chấn chỉnh kịp thời khi có biểu hiện xấu làm ảnh hưởng đến cả hệ thống Ngân hàng Việt Nam, đồng thời NHNN cũng cần có các biện pháp mạnh tay khi các ngân hàng vi phạm về các chỉ tiêu an toàn trong quá trình hoạt động, như hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động nếu các ngân hàng vi phạm,...
5.2.3 Các giải pháp khác
Thứ nhất, tăng quy mô của các NHTMCP Việt Nam cả về số lượng lẫn chất lượng. Theo như kết quả phân tích ở chương 4 thì nhân tố quy mô có mối tương quan đồng biến chặt chẽ với đòn bẩy tài chính. Qủa thực, sự tăng cường quy mô (thông qua nâng cao tổng tài sản) có thể tạo nên nhiều thuận lợi hơn cho các ngân hàng trong công tác huy động vốn từ các tầng lớp dân cư khác nhau trong xã hội. Thực tế, niềm tin của khách hàng có thể thay đổi một phần nào đó theo quy mô ngân hàng. Nghĩa là, ngân hàng nào có quy mô càng lớn, tài sản càng ổn định và
lành mạnh thì niềm tin càng vượt trội hơn và ngược lại. Hay nói đúng hơn, các ngân hàng càng gia tăng quy mô (thông qua con đường nâng cao tổng tài sản) thì sẽ càng thúc đẩy hơn nữa khả năng huy động vốn. Như vậy, kết quả nghiên cứu chiến lược trên là: ngân hàng sẽ có thể có nhiều khách hàng hơn, huy động được nhiều nguồn vốn hơn (với các chi phí khác nhau và các kỳ hạn khác nhau)để cùng tài trợ cho các kế hoạch kinh doanh hấp dẫn trong tương lai. Và đó cũng chính là phương án khả thi nhất giúp ngân hàng vay nợ tốt hơn,kinh doanh hiệu quả hơn và hội tụ đủ năng lực tài chính để phát triển vững mạnh hơn về sau.
Thứ hai, đa dạng hóa công cụ huy động vốn. Để quản trị CTTC hiệu quả và đảm bảo khả năng điều chỉnh linh hoạt đến CTTC, các NHTMCP cần đa dạng hóa các công cụ huy động vốn của mình nhằm đáp ứng khả năng thay đổi của CTTC mục tiêu qua từng thời kỳ. Hiện tại các ngân hàng chủ yếu huy động thông qua phương pháp truyền thống đó là gửi tiết kiệm, để huy động nhiều hơn, các ngân hàng cần quan tâm và đầu tư về các dịch vụ hiện đại như:
- Huy động thông qua tài khoản thanh toán
- Huy động thông qua tài khoản đầu tư
- Huy động thông qua thị trường phái sinh
Thứ ba, sử dụng một cách có hiệu quả đối với phần lợi nhuận giữ lại. Kết quả cho thấy rằng khi lợi nhuận tăng thì đòn bẩy tài chính của các ngân hàng giảm xuống điều này cũng có nghĩa rằng các khoản nợ có xu hướng giảm dần. Chính điều này giúp củng cố tính thanh khoản của các ngân hàng từ đó tạo dựng niềm tin đối với khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng nên tận dụng nguồn lợi nhuận này để tăng vốn tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Thứ tư, nâng cao trình độ quản trị CTTC trong ngân hàng. Các ngân hàng cần tổ chức hoạt động và cơ cấu nhân sự phù hợp với hoạt động quản trị tài chính, xây dựng hệ thống kiểm tra giám sát nội bộ một cách chặt chẽ và hiệu quả. Bên cạnh đó, các nhà quản trị ngân hàng cần ý thức vấn đề thông tin bất cân xứng điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận vốn trên thị trường. Do đó, việc minh bạch thông tin trong ngân hàng là tiền đề thuận lợi để các ngân hàng tiếp cận vốn cũng như là
thu hút nhà đầu tư. Hơn nữa, các nhà quản trị cần phải thấy được tính hai mặt của việc sử dụng nợ, từ đó xây dựng một CTTC phù hợp với quy mô ngân hàng tránh tình trạng mất thanh khoản.
5.3 Kiến nghị
Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì NHNN chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHNN thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHNN cũng có thể gây ra những cú” đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Ở Việt Nam, từ khi thành lập cho đến nay, NHNN là cơ quan Chính phủ, chịu sự can thiệp của Chính phủ. Do vây, NHNN cần phải điểu tiết chính sách tiền tệ một cách phù hợp và linh hoạt không chỉ giúp cho hoạt động hệ thống ngân hàng ngày một hiệu quả hơn mà còn khẳng định vị thế quan trọng hỗ trợ đắc lực cho nền kinh tế. Đề tài đề xuất một sô kiến nghị như sau:
5.3.1 Đối với Chính phủ
Cần phải sử dụng một cách linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc thị trường. Tránh tình trạng áp dụng các biện pháp hành chính can thiệp làm méo mó hoạt động của thị trường. Bên cạnh đó, các chính sách được ban hành nên có tính khả thi cao, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, phù hợp với quy mô từng ngân hàng và có sự nhất quán, tránh chồng chéo. Hơn nữa, Chính phủ có thể nới dần “ room” cho các nhà đầu từ chiến lược vào khu vực Ngân hàng, điều này không chỉ có ý nghĩa về mặt tài chính giúp các ngân hàng tăng vốn kinh doanh, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng mà còn có ý nghĩa về việc tăng cường quản trị, quản lý cũng như cải thiện sản phẩm dịch vụ, công nghệ ngân hàng.
5.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
NHNN nên phát triển thị trường vốn trung và dài hạn, đa dạng các sản phẩm tài chính, khuyến khích các định chế tài chính trung gian phát triển các dịch vụ tài chính như mua bán nợ, chiết khấu thương phiếu, bảo hiểm, tư vấn tài chính,... đảm bảo sự vận hành an toàn, lành mạnh trên thị trường tài chính.
NHNN cần tăng cường giám sát thị trường tiền tệ để kịp thời phát hiện các ngân hàng làm ăn kém hiệu quả, khả năng thanh khoản thấp để tiến hành sáp nhập, hợp nhất với mục đích nâng quy mô ngân hàng, có nguồn vốn lớn hơn để tồn tại và phát triển trong môi trường tài chính ngày càng khắc nghiệt, tránh tình trạng hoạt động yếu kém của các ngân hàng này gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng.
NHNN cần xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Cần xử lí nghiêm minh đối với các NHTMCP vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng dẫn đến ngu cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng như đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, điều hành của NHTMCP, hay sáp nhập, hợp nhất, giải thể NHTMCP; hay yêu cầu các NHTMCP phải có những giải pháp tái cơ cấu,...
5.4 Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về CTTC mang tính định lượng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng được nghiên cứu bởi các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam có rất ít bài nghiên cứu về CTTC ngân hàng, nên hạn chế về những thông tin so sánh, đối chiếu. Bên cạnh đó, tác giả lựa chọn các nhân tố từ các mô hình CTTC, CTV ngân hàng trên thế giới để sử dụng kiểm định đối với mô hình CTTC cho các NHTMCP Việt Nam nên không thể tránh việc sử dụng biến chưa được đồng nhất.
Số lượng mẫu thu thập nghiên cứu khá nhỏ: một số ngân hàng đã công bố số liệu không đầy đủ dẫn đến tác giả chỉ thu thập được thông tin của 25 NHTMCP trong tổng số 34 NHTMCP đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, chiểm tỷ lệ khoảng 73%. Vì thế việc đánh giá tình hình hoạt động của cả hệ thống NHTMCP Việt Nam sẽ còn hạn chế cũng như chưa bao quát hết tình hình hoạt động của các ngân hàng này.
Việc xây dựng biến: tác giả sử dụng cho mô hình nghiên cứu dựa trên việc lựa chọn các biến trong mô hình CTV ngân hàng của các quốc gia trên thế giới, chưa có sự kháo sát về mặt định tính đối với các nhà quản trị tài chính ngân hàng nên có thể bỏ sót một vài nhân tố ảnh hưởng CTTC của các NHTMCP Việt Nam như: lãi suất,
tài sản có rủi ro, nợ xấu, lạm phát, hành vi của nhà quản trị, rủi ro, các chính sách, giai đoạn phát triển của ngân hàng,... Đây cũng là gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo về cấu trúc tài chính.
Phương pháp đo lường: do hạn chế về thông tin và số liệu nên các biến số đo lường chỉ theo giá trị sổ sách kế toán, không thể đo lường các biến số này theo theo giá trị thị trường của ngân hàng, trong khi đó một số nghiên cứu ở các nước trên thế giới đã đo lường các biến nghiên cứu theo giá trị thị trường do vậy có thể phản ánh chính xác mối tương quan của các biến độc lập và biến phụ thuộc. Một lý do mà tại Việt Nam không thể thực hiện được là vì tính minh bạch thông tin của các NHTMCP Việt Nam chưa cao nên chưa có dữ liệu để tiến hành nghiên cứu. Đây cũng là một vấn đề quan trọng trong quản trị tài chính ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 5
Toàn bộ nội dung chương 5 đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện CTTC của các NHTMCP Việt Nam, đó là: tăng cường VCSH, cải thiện khả năng thanh khoản và các giải pháp được vận dụng từ các nhân tố ảnh hưởng. Đồng thời, đề tài cũng đưa các kiến nghị từ Chính phủ và NHNN về các chính sách nhằm nâng cao CTTC cho hệ thống NHTMCP Việt Nam. Nghiên cứu đã đi sâu phân tích bao gồm:
- Đưa ra quan điểm khi tiến hành xây dựng các giải pháp cho các NHTMCP Việt Nam trong hệ thống, các kiến nghị đối với Chính phủ và NHNN.
- Trích dẫn và phân tích một số quan điểm, mục tiêu của Chính phủ, NHNN về phát triển và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
- Điểm lại các căn cứ để xây dựng giải pháp thông qua các mục tiêu phát triển của ngành, đề án phát triển của ngành, các hạn chế của thực trạng CTTC ở chương 3 và mô hình hồi quy đánh giá và xác định mức ảnh hưởng của các nhân tố đến CTTC ở chương 4.
- Đưa ra 3 giải pháp đối với các NHTMCP Việt Nam, 1 kiến nghị với Chính phủ và 3 kiến nghị với NHNN.
Từ kết quả của mô hình phân tích hồi quy định lượng ở chương 4, tác giả đã vận dụng các kết quả này để gợi ý các giải pháp nhằm hoàn thiện CTTC của các NHTMCP Việt Nam bao gồm:
- Định hướng CTTC của các NHTMCP Việt Nam trong thời gian sắp tới bằng cách đề xuất các mô hình CTTC theo quy mô ngân hàng.
- Vận dụng các nhân tố quy mô (SIZE), tính thanh khoản (LIQU) tài sản hữu hình (TANG), và tốc độ tăng trưởng trong việc huy động nguồn vốn nhằm xây dựng một CTTC hợp lý cho NHTMCP Việt Nam trong tương lai.
KẾT LUẬN CHUNG
Xuất phát từ lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm khẳng định rằng các nhân tố ảnh hưởng đến CTTC doanh nghiệp phi tài chính cũng ảnh hưởng đến CTTC ngân hàng, đề tài đã tiến hành nghiên cứu về các lý thuyết về CTTC, CTV trong doanh nghiệp và các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến CTV, CTTC của các doanh nghiệp phi tài chính và ngân hàng. Và rút ra kết luận: CTTC của các NHTMCP Việt Nam được xác định là đòn bẩy tài chính được tính bằng tỷ lệ nợ trên tổng tài sản. Đề tài cũng xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến CTTC của các NHTMCP Việt Nam là quy mô tài sản, tốc độ tăng trưởng, tài sản hữu hình, lợi nhuận, tính thanh khoản, và tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP. Đề tài sử dụng mô hình ước lượng hiệu ứng cố định FEM (Fixed Effect) để nghiên cứu.Từ đó, đề tài nghiên cứu đã đi đến ước lượng mô hình tổng thể và kết luận:
- Hầu hết các nhân tố ảnh hưởng đến CTTC của doanh nghiệp phi tài chính đều có ảnh hưởng đến CTTC của các NHTMCP Việt Nam.
- Trong giai đoạn 2007- 2014, tỷ lệ đòn bẩy tài chính của các NHTMCP Việt Nam có mức bình quân là 87,3% và tỷ lệ này đang có xu hướng tăng qua các năm. Tuy kết quả này khá tương đồng so với một số nghiên cứu trên thế giới như: Ngân hàng thuộc các quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á tỷ lệ bình quân là 91,96%, tại các quốc gia Pakistan tỷ lệ nợ là 85,8% nhưng khả năng sử dụng và quản lý nợ của các NHTMCP Việt Nam còn nhiều yếu kém chính điều này đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính thanh khoản của các ngân hàng.
- Nhân tố quy mô tài sản (SIZE), tốc độ tăng trưởng (GROW) tác động đồng biến đối với đòn bẩy tài chính.
- Nhân tố tính thanh khoản (LIQU) và tài sản hữu hình (TANG), và GDP có tác động nghịch biến lên đòn bẩy tài chính.
- Nhân tố lợi nhuận (PROF) tác động không thống nhất lên đòn bẩy tài chính và không có ý nghĩa thống kê.