Thống Kê Số Lượng Cơ Sở Chế Biến Và Lao Động Chuyên Chế Biến Hải Sản Trên Địa Bàn Thị Xã Cửa Lò Năm 2005 Và 2007

thị cũng như xây dựng mạng lưới sản phẩm. Tuy nhiên, đây là một vấn đề hoàn toàn mới, chưa thể hình thành nhận thức một cách nhanh chóng, cũng như do hạn chế về trình độ học vấn và nhiều yếu tố khách quan mà những người làm nghề chế biến ở đây chưa thể nắm bắt và áp dụng những kiến thức đó vào thực tế. Mặc dù vậy, để nghề chế biến phát triển một cách lâu dài và bền vững, vấn đề quảng bá sản phẩm cũng là điều rất quan trọng. Và điều trước tiên là cần nâng cao nhận thức của ngư dân về việc đảm bảo chất lượng và quảng bá hình ảnh sản phẩm.‌‌


4. Tổ chức lao động trong chế biến hải sản

4.1. Các hình thức tổ chức lao động

4.1.1. Tổ chức lao động theo hộ gia đình

Hiện nay trên địa bàn đã có 44 cơ sở sản xuất nước mắm và đã xây dựng được làng nghề chế biến thuỷ sản tại phường Nghi Hải.

Theo số liệu của Phòng Thống kê thị xã Cửa Lò, số liệu thống kê về số lượng cơ sở chế biến và lao động chuyên chế biến hải sản trên địa bàn thị xã trong hai năm 2005 và 2007 như sau:


STT


Phường

Năm 2005

Năm 2007

Cơ sở chế biến

Lao động (người)

Cơ sở chế biến

Lao động (người)


Nghi Thuỷ

42

74

63

133


Nghi Hải

16

24

26

74


Nghi Hoà

3

3

7

44


Thu Thuỷ

9

15

3

4


Nghi Thu

1

1

1

2


Nghi Tân

0

0

1

2


Tổng

71

117

101

259

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Các hình thức khai thác và chế biến hải sản trong cộng đồng ngư dân ven biển Cửa Lò, Nghệ An - 14

Bảng 7: Thống kê số lượng cơ sở chế biến và lao động chuyên chế biến hải sản trên địa bàn thị xã Cửa Lò năm 2005 và 2007


(Nguồn: Phòng thống kê UBND thị xã Cửa Lò)

Như vậy, Nghi Thuỷ vẫn là địa bàn có số lượng cơ sở chế biến tham gia nghề thủ công này là cao nhất, chiếm trên 60% và trên 50% số lao động trong nghề này. Ngoài ra, còn có khoảng 70 lao động không chuyên tham gia làm nghề chế biến.

Tại Nghi Hải và Nghi Thủy, hiện tại có nhiều hộ làm nghề chế biến

nước mắm nhất trong cả thị xã. Trước thời kỳ đổi mới (1986), ở Nghi Thuỷ có hợp tác xã chế biến Đồng Tâm, chủ yếu phơi cá khô và làm nước mắm. Với sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế của nhà nước, các hợp tác xã dần dần giải tán, chuyển sang phát triển kinh tế hộ, cá thể. Hiện tại, ở Cửa Lò, quy mô chế biến nước mắm chủ yếu cũng là hộ gia đình và số lượng làm tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và diện tích đất đai của mỗi hộ. Những nhà làm ít thì thường có khoảng 4 – 5 thùng ướp mắm, những hộ làm nhiều có khoảng 25 – 30 thùng. Nhiều người cho biết, có nhiều nhà muốn làm nhưng diện tích đất đai chỉ vừa đủ ở, nên không có điều kiện.

Không giống với các nghề chế biến khác, chế biến nước mắm phải mất một thời gian dài mới ra sản phẩm, ít nhất là 6 tháng. Số lao động tham gia nghề này tuỳ thuộc vào quy mô của mỗi hộ gia đình. Hộ làm ít chỉ cần khoảng 2 thành viên trong gia đình, hộ làm nhiều thì cần khoảng 6 đến 7 người, đều là những người trong gia đình và anh em họ hàng. Nghề này đòi hỏi tính cần cù, chịu khó bởi phải thường xuyên trăn trở cho chượp nhanh chín, nhất là phải đánh đều khi được nắng và che đậy cẩn thận khi trời mưa.

Thường những hộ chế biến nước mắm thì không trực tiếp đi đánh bắt. Họ đi mua nguyên liệu tại bến cá trên địa bàn. Giữa những người đánh bắt và những người làm nghề chế biến đã xây dựng một mối liên hệ để kết nối về thông tin, mỗi khi thuyền đánh bắt chuẩn bị về tới bến, người trên thuyền điện về cho đầu mối chế biến của mình để ra bến cân cá. Mỗi một hộ có một số đầu mối nguyên liệu nhất định. Ngoài ra, họ có cũng thể sang kho đông ở phường Nghi Tân để mua thêm cá. Khác với nghề đánh bắt đa phần là do nam giới đảm nhiệm, nghề chế biến mắm đa phần do nữ giới đảm nhiệm.

Mỗi cơ sở chế biến nước mắm được ra đời chủ yếu dựa trên vốn của mỗi hộ gia đình đó. Đó là những hộ có diện tích đất vườn đủ rộng, có không gian để làm nghề chế biến nước mắm, đồng thời cũng phải là những hộ có điều kiện kinh tế khá giả, bởi nghề này thời gian chờ quay vòng vốn lâu. Thông thường, những cơ sở này bán sản phẩm ngày tại nhà, kèm theo đó là bán các mặt hàng chế biến như hải sản khô và các loại mắm ruốc cùng với một số đặc sản xứ Nghệ khác, tạo thành hệ thống “chợ tại gia” trong địa bàn phường Nghi Thủy. Những hộ này cũng là đầu mối nhập các loại hải sản khô cho các hộ gia đình khác trong phường.

Có rất nhiều gia đình trong phường chế biến hải sản khô. Đây là một hình thức làm thêm, theo quy mô nhỏ, lẻ của từng hộ gia đình, ngày nào đánh

bắt về được nhiều, người ta mua (hoặc có thể là do thuyền nhà mình đánh bắt được) để phơi khô, nên không có con số thống kê chính xác. Nhưng nghề này chỉ có thể tiến hành trong mùa hè, có nắng to. Chính vì thế, giữa các hộ làm cùng nghề này không có sự liên kết nào mà mỗi hộ chỉ tạo nên mối liên hệ với những gia đình chuyên sản xuất nước mắm kèm buôn bán các mặt hàng hải sản khô như đã nói ở trên để bán sản phẩm.


4.1.2. Tổ chức lao động theo nhóm

Ngoài hình thức tổ chức lao động theo hộ gia đình, ngư dân ở Nghi Thủy còn có một số tổ chức lao động theo nhóm, mang tính tự phát mà chưa tổ chức thành phường hay hội chính thức.

Phổ biến nhất là các nhóm bóc tôm nòn. Việc bóc tôm nòn tốn khá nhiều thời gian nên cần lực lượng lao động nhiều hơn so với nghề nướng và luộc cá. Sự liên kết giữa các hộ gia đình làm nghề này diễn ra ở quy mô lớn hơn. Hộ có nhiều vốn đứng ra tổ chức hội bóc tôm, thường là hai hộ chung nhau. Họ bỏ tiền ra mua tôm, sau đó thuê lao động bóc và sấy tôm. Số lượng lao động là không cố định, tuỳ thuộc vào lượng tôm mua được trong ngày hôm đó, và tuỳ thuộc vào sự nhàn rỗi của chính người lao động. Mối quan hệ giữa người thuê - người được thuê không dựa trên một hợp đồng lao động hay trên một loại giấy tờ văn bản nhất định nào, mà dựa trên mối quan hệ quen biết, hàng xóm láng giềng. Họ thường là những người trong các hộ ở gần nhau, tham gia bóc tôm như một hình thức tăng thêm thu nhập cho gia đình trong thời gian nhàn rỗi. Lực lượng lao động trong nghề này chủ yếu là phụ nữ, ở đủ mọi lứa tuổi. Vì đây là một công việc nhẹ nhàng, không mất nhiều sức lao động nên ngay cả người già cũng có thể tham gia, ngoài ra, những trẻ con (tầm tuổi học tiểu học) cũng có thể phụ giúp mẹ, chị, bà của mình khi tan học về. Thông thường, có từ 15 đến 20 người phụ nữ bóc tôm.

Cứ mỗi buổi sáng sớm, tầm từ 5h đến 5h30, 4 người phụ nữ quang gánh ra bến Nghi Thuỷ chờ mua tôm từ thuyền đánh bắt trở về bến. Họ thường chọn những con cỡ vừa và to (vì tôm nhỏ rất khó bóc, và khi phơi khô nó teo lại rất bé, khó bán hơn những con vừa và to). Ngay khi thuyền cập bến, họ xuống những thuyền có tôm để tiến hành cuộc thương lượng mua bán với người phụ trách thuyền. Sau khi giá cả thoả thuận hợp lý, họ gánh tôm về hộ bỏ vốn. Tại đó, đã có một phụ nữ nhen 6 bếp lò với 6 nồi nước đang sôi (người phụ nữ này là thành viên của hộ tổ chức bóc tôm). Sau khi rửa sạch, cô

cho tôm vào 6 chiếc rổ có quai xách và thả vào những nồi nước đang sôi (khoảng 5 phút thì nhấc ra), sau đó đổ tôm ra những tấm phên được dăng sẵn trên nền một khoảng sân rộng và để nguội. Khoảng 7 đến 8 giờ sáng , những người khác lần lượt kéo tới để chuẩn bị bóc tôm. Tiền công được trả theo số lượng tôm mỗi người bóc được, chính vì vậy, thời gian tới làm là tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi người. Ngay khi tới nơi, có khoảng 2 tới 3 người ngồi quanh một tấm phên (khoảng 1,2m2) và mỗi người tự lấy một chiếc rổ con cho mình để đựng tôm bóc được. Số lượng bóc được nhiều hay ít phụ thuộc vào sự chăm chỉ và quen tay của người đó. Trong khi những người này bóc, thì người phụ nữ phụ trách việc luộc tôm liên tục luộc rồi đổ ra để mọi người làm, sau khi đã luộc hết toàn bộ, cô này cũng tham gia ngồi bóc cùng với

những người khác. Trong lúc làm việc, tất cả mọi người nói chuyện với nhau, theo từng nhóm nhỏ quanh những tấm phên tôm.

Khoảng 10 giờ sáng, một người phụ nữ khác xuất hiện, có nhiệm vụ cân và ghi số lượng tôm đã bóc được của mỗi người, tới cuối buổi, sẽ cộng lại toàn bộ số lượng rồi thanh toán tiền luôn cho mọi người. Cứ bóc được 1kg tôm nòn sẽ được trả công 6.000đ. Mỗi buổi sáng, trung bình mỗi người bóc được 4kg. Như vậy, tính bình quân, sau một buổi sáng làm việc chăm chỉ, mỗi người sẽ có 24.000đ. Cũng vào tầm 10h sáng, sau khi lượng tôm cân được kha khá, người phụ nữ có nhiệm vụ luộc tôm sẽ đứng dậy để chuẩn bị lò xông khô.

Khu vực lò xông ngay sát khu vực bóc tôm. Lò xông là những bếp than tổ ong, được đặt bên dưới những tấm phên rải tôm đã bóc, cách khoảng 1m. Người ta chồng khoảng 3 đến 4 phên tôm, mỗi phên cách nhau khoảng 10cm để xông, bên dưới đặt khoảng 2 tới 3 bếp than. Cả khu lò xông có tới 6 khu vực xông như thế.

Cứ khoảng 12h trưa là mọi công việc hoàn tất, sau khi cân hết số tôm bóc được trong buổi sáng, họ giúp nhau rải toàn bộ số tôm lên các tấm phên để xông. Số vỏ tôm được thu gọn lại, họ phơi chúng ra sân cho khô (hoặc xông nếu trời không được nắng). Mỗi người nhận tiền công của buổi sáng và rồi sau đó lại tản ra, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho bữa trưa của gia đình. Vỏ tôm khô sẽ được nghiền và dùng trong chăn nuôi gia đình hoặc cũng có thể bán cho xí nghiệp chế biến thức ăn cho gia súc, gia cầm ở ngay tại địa phương. Và dĩ nhiên, số tiền thu được từ công đoạn này thuộc về người bỏ vốn ban đầu.

Công việc như thế cứ diễn ra thường xuyên, trừ những hôm biển động không thể đi đánh bắt được hoặc có hôm thuyền đánh không được nhiều. Việc bóc tôm tập trung của mỗi một, hai hộ bỏ vốn đã tạo thêm việc làm cho gần 20 lao động khác của khoảng gần 10 hộ trong làng.

Ngoài ra, việc chế biến cá để đi bán trong các chợ ở trong và ngoài thị xã, ngoài tỉnh cũng tạo ra những nhóm lao động nữ.

Những người phụ nữ thường dậy sớm, ra bến Nghi Thuỷ, chờ thuyền về bến, chọn mua cá tươi. Sau khi mặc cả lên xuống, những con cá tươi ngon được mang về nhà rửa sạch và chuẩn bị các khâu để nướng, luộc. Có những nhà không ra mua ở bến mà tới các kho đông ở Nghi Tân, hoặc xuống bến Cửa Hội, lấy cá đông lạnh từ các vùng miền khác về để chế biến. Hiện tại, ở Nghi Tân đã có thêm nhiều hộ gia đình có kho đông, họ dùng nó để bảo quản cá lấy từ những vùng khác, hoặc để bảo quản cá những hôm đánh được nhiều, dành lại cho những ngày không đánh được, vẫn có cá bán cho những hộ làm nghề nướng, luộc.

Thường thì hơn hai người phụ nữ cùng tham gia việc nướng, luộc cá. Một người thì chuẩn bị các khâu trước khi chế biến, người kia thực hiện việc chế biến. Hai người luân phiên các khâu sơ chế thủ công để ra sản phẩm cuối cùng. Có những lò nướng có 5 – 8 người phụ nữ (của khoảng 2 – 3 hộ gia đình) cùng tham gia chuẩn bị và sơ chế cá. Các công đoạn cũng được phân công cho từng người.

Thường thì người ta sẽ tiến hành luộc cá trước, sau đó mới nướng cá. Khoảng thời gian từ 6h sáng tới 10 giờ sáng là thời gian họ rửa cá,

chuẩn bị các công đoạn và tiến hành luộc cá, sau đó, họ nghỉ khoảng 1 tiếng để ăn cơm trưa. Sau khi cơm nước xong xuôi, họ bắt tay vào công đoạn nướng cá. Toàn bộ công việc được hoàn tất vào khoảng 2h đến 3h chiều. Những người phụ nữ lại chia nhau chở cá đi bán ở những chợ trong thành phố Vinh, có người đi xa tới các huyện xa như Yên Thành, Nam Đàn,...hoặc lên cả những huyện miền núi như Tương Dương, Anh Sơn,... Quy trình công việc cứ diễn ra như thế ngày qua ngày, mang lại cho họ một nguồn thu nhập nhất định, góp phần nuôi sống gia đình.


4.2. Vai trò của nữ giới trong nghề chế biến

Trong các gia đình làm nghề nông truyền thống, có câu ca dao cổ truyền đã khái quát lên môi trường lao động cũng như sự phân công lao động

trong gia đình “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Trong nhà nông, các thành viên trong gia đình phải cùng nhau tham gia sản xuất, góp sức lao động chung (cày, bừa, cấy, gặt,...) thì mới tạo ra thành phẩm lao động cuối cùng là hạt thóc, hạt gạo. Thu nhập của cả gia đình phụ thuộc vào thành quả cuối cùng này. Còn trong cộng đồng ngư dân, các lực lượng lao động trong gia đình thường tham gia vào những công đoạn khác nhau với những thành quả kinh tế khác nhau vừa độc lập, vừa phụ thuộc vào nhau. Nam giới – những người chồng tham gia đánh bắt, sản phẩm đánh bắt về đem bán cho những người đi buôn bán, làm chế biến,... Thu nhập của họ phụ thuộc vào lượng đánh bắt và giá cả của ngày hôm đó. Cứ đi đánh bắt thì mới có thu nhập, còn những ngày biển động, không ra khơi được thì coi như ngày đó không có thu nhập. Còn nữ giới – những người vợ, ngoài các công việc gia đình, họ còn đảm trách thêm nhiều việc khác, và cũng mang lại những thu nhập nhất định cho gia đình từ những công việc mà họ tham gia.

Trong cộng đồng ngư dân nơi đây, phụ nữ tham gia vào rất nhiều hoạt động liên quan tới nghề cá, gồm: chuẩn bị dụng cụ, vá lưới, chế biến, bảo quản hải sản, buôn bán hải sản,... Ngoài ra, vào những thời điểm mùa vụ cao nhất trong năm, họ cũng có thể tham gia đánh bắt trực tiếp như lao động nam (tuy nhiên, trường hợp này là rất ít).

Trong khâu chuẩn bị ngư cụ, người phụ nữ thường giúp chồng các công việc như: mua các vật dụng (chì, sợi cước, phao,...), vá lưới, khiêng những ngư cụ nhỏ và nhẹ ra thuyền.

Trong việc chế biến và bảo quản hải sản: đa số phụ nữ đảm nhận các công việc chế biến, sơ chế hải sản. Đồng thời, họ cũng chính là người đi buôn bán các sản phẩm sau khi chế biến và sơ chế. Trong các khâu chế biến, họ đảm nhiệm các khâu từ mua hải sản, rửa, chọn lọc và tiến hành trộn muối rồi ngâm ủ. Sau khi đã ủ, hàng ngày họ chú ý tới việc phơi và đánh giúp cho mắm nhanh nhuyễn và chín. Đây là loại hình công việc không mất nhiều sức lao động nhưng tốn công lao động, nhất là trong việc chế biến nước mắm kéo dài cả năm trời. Tuy nhiên, công việc này chủ yếu thực hiện tại nhà, nên họ vừa có thể làm thêm nghề kiếm sống cho gia đình, vừa có thể làm các việc nội trợ và chăm sóc con cái, chuẩn bị cơm nước cho chồng sau khi đi đánh bắt.

Trong việc sơ chế và bảo quản sản phẩm, hầu như phụ nữ thực hiện tất cả các khâu, từ chọn mua cá, mổ cá, phơi cá, hoặc bóc tôm, xông khói tôm, nướng cá, luộc cá,... Nam giới cũng có thể phụ giúp trong thời gian nghỉ ngơi

“Đến Nghi Thủy trong những ngày hè, thuyền đi biển về đánh bắt được nhiều, vào lúc sáng sớm có thể thấy rất nhiều phụ nữ tất tả quang gánh ra bến. Khi trở về, hai vai trĩu nặng gánh cá còn lấp lánh ánh bạc tươi ngon. Nhiều cá, được nắng, họ mua nhiều, hết gánh này tới gánh khác, đi khoảng ba tới bốn chuyến. Vừa mua được cá về họ xắn tay vào chế biến. Họ phân loại cá, mổ bụng, rửa sạch, con cá còn tươi thì nướng, cá hơi ươn thì luộc để đi bán chợ gần chợ xa, số còn lại thì làm sạch để phơi khô. Cá to thì khứa ở sống lưng, cá nhỏ để nguyên con. Được con nào thì sắp lên những tấm phên, liếp bằng nứa (hoặc bằng sợi cước có khung nứa bao quanh), đầy một tấm thì lại gác lên mái nhà, bờ tường, sân giếng,... để phơi khô”. – Quan sát của tác giả luận văn

ở nhàu sau khi đánh bắt về như: sắp cá ra các tấm phên và gác lên mái nhà, tường, hoặc đưa ra khu vực giếng làng để phơi; đi lấy than, muối hoặc các vật dụng cần thiết cho việc sơ chế và bảo quản sản phẩm.


Hiện tại, ở Nghi Thủy, không có hiệp hội hay tổ chức xã hội nào hỗ trợ cho phụ nữ trong việc chế biến, phơi khô và buôn bán hải sản. Hầu hết họ làm theo quy mô hộ gia đình nhỏ lẻ và không có sự liên kết giữa các hộ gia đình.

“Bán cá lặt vặt theo ngày thì không nói làm chi, còn nếu đã đi buôn cá, cứ tưởng là đơn giản nhưng ai không tinh không làm được. Phải hiểu được thị hiếu của người tiêu dùng, phải biết cách chọn mua, bảo quản, đặc biệt trong buôn bán giữ được chữ tín là quan trọng nhất. Và muốn lãi cao phải biết tiết kiệm, tiết kiệm từng bao nylon... Trong quá trình làm, tôi đã mày mò cải tiến xếp 10kg cá vào bao nylon trong một khay thành 4 khối trông vừa gọn, đẹp, dễ vận chuyển, vừa bóc tách thao tác nhanh, tiết kiệm thời gian” – Nữ ngư dân, 40 tuổi.

“Đi buôn đi bán cũng vất vả lắm, tranh giành mua được cá ngon, rồi đi bán cũng phải khéo ăn khéo nói, người mua thì càng ngày yêu cầu càng cao. Quan trọng mình cũng phải giữ mối khách quen trong những chợ thường xuyên tới bán” – Nữ ngư dân, 35 tuổi.

Ngoài ra, không thể không nói tới vai trò của người phụ nữ trong buôn bán hải sản, đó là công việc chủ đạo của phụ nữ trong cộng đồng ngư dân. Họ không trực tiếp tham gia đánh bắt, nhưng với việc buôn bán hải sản tươi, khô và chế biến, họ mang lại thu nhập trực tiếp – họ bán cá lấy tiền để mua sắm các nhu yếu phẩm cho gia đình. Chồng đi đánh bắt, vợ buôn bán hải sản là một mẫu hình khá phổ biến trong các cộng đồng và gia đình ngư dân. Đây là lĩnh vực thể hiện tính năng động và nhạy bén của phụ nữ vùng biển.


Ngoài những hoạt động kinh tế liên quan tới nghề cá, nhiều phụ nữ đã

“Phụ nữ ở đây năng động lắm, họ làm đủ nghề để sinh sống, mùa biển được thì họ chế biến, đi buôn bán hải sản ở các chợ trong và ngoài thị xã, đến mùa du lịch thì họ làm thêm nghề phục vụ ăn uống ở các nhà hàng sát biển, bán hàng lưu niệm. Ngoài ra, họ còn tham gia chế biến hải sản đông lạnh ở những cơ sở, xí nghiệp đông lạnh trong phường và cả ở phường Nghi Tân. Trước đây, nhiều người phải vất vả đi bán cá rong, giờ có thêm nhiều cơ sở đông lạnh, họ có được công ăn việc làm với thu nhập ổn định hơn. Nhiều chị em còn tìm đường đi ra nước ngoài theo con đường xuất khẩu lao động. Nhìn chung, phụ nữ ở đây tháo vát, biết chuyển hướng nghề nghiệp, tìm những việc làm thêm để tăng thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, việc chuyển đổi nghề nghiệp đang còn mang tính tự phát, chưa có một chương trình nào hỗ trợ phụ nữ làm kinh tế. Nhiều phụ nữ tự tìm được nghề làm thêm trong những ngày mưa gió tháng giá, còn nhiều người thì vẫn không biết làm gì” - Chủ tịch hội phụ nữ phường Nghi Thủy

linh động trong việc tạo ra sinh kế mới, nhất là dưới tác động của chính sách phát triển du lịch biển của thị xã.


“Khi mới thành lập cách đây 10 năm, việc làm ăn thuận lợi hơn rất nhiều so với hiện tại. Lúc đó hầu như chưa có mấy nhà làm đông lạnh, cơ sở lại ngay sát bến nên khi vừa có thuyền về là mua cá về tích trữ trong kho, đến lúc đánh bắt được ít lại xuất kho ra bán, như thế được giá hơn. Công việc làm ăn khá phát đạt, chồng tôi đi biển được một thời gian cũng nghỉ hẳn, về tham gia quản lý sản xuất cùng với tôi. Nhưng bây giờ, công việc làm ăn ngày càng khó. Bởi vì dân ở đây hầu như làm nghề lộng, nghề khơi trước kia có mấy đội tàu đánh bắt nhưng càng ngày do không có hiệu quả nên ít đi, mà nghề khơi mới đánh bắt được nhiều hải sản có giá trị xuất khẩu cao hơn. Thêm vào đó, ngày càng có nhiều gia đình làm cùng nghề, chèo kéo khách du lịch bằng cách cho xe lai hoa hồng cao để chở khách về gia đình họ, cạnh tranh kiểu đó khó lắm, nếu muốn có nhiều lãi, chẳng lẽ mình lại nâng giá quá cao lên hoặc

Hiện tại trên địa bàn có 6 doanh nghiệp nữ đứng đầu các cơ sở kinh doanh: 1 cơ sở chế biến cá đông lạnh, 4 cơ sở chế biến nước mắm và 1 cơ sở bán hàng vật tư xây dựng. Lao động trong các cơ sở doanh nghiệp nhỏ này đa phần là nữ giới trên địa bàn phường. Trong đó đáng chú ý là doanh nghiệp cơ sở chế biến cá đông lạnh. Người phụ nữ chủ cơ sở này đã mạnh dạn thuê diện tích 3.200m2 lập cơ sở chế biến đông lạnh ngay sát bến cá Nghi Thủy. Số lượng nhân công thường xuyên là 14 người, vào những thời điểm đánh bắt được có thể thuê thêm lao động. Toàn bộ nhân công là nữ giới, chủ yếu là anh em họ hàng nội ngoại và thêm một vài người bạn.

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 14/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí