Các Biện Pháp Tránh Đánh Thuế Hai Lần Theo Pháp Luật Tránh Đánh Thuế Hai Lần Của Việt Nam


Khoản 4 quy định đối với thu nhập từ tiền lãi cổ phần mà đối tượng sở hữu trên 10% quyền bỏ phiếu thì số thuế được khấu trừ tối đa chỉ bằng số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tính trên thu nhập trước thuế ở nước ký kết kia theo nội luật của nước cư trú. Theo quy định này thì nước cư trú chỉ chấp nhận khấu trừ số thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên thu nhập chịu thế theo nội luật nước mình (thuế đánh vào thu nhập công ty- thuế gián tiếp đối với người góp vốn), số thuế trực tiếp (số thuế nước có nguồn thu nhập đánh vào tiền lãi cổ phần) mà người góp vốn nộp cho nước có nguồn thu nhập không được khấu trừ ở nước cư trú.


Các ưu đãi thuế mà nước có nguồn thu nhập dành cho đối tượng cư trú của nước ký kết kia được nước cư trú tôn trọng thực hiện. Theo Khoản 5, nước cư trú chấp nhận khấu trừ các khoản ưu đãi thuế mà nước có nguồn thu nhập đã miễn, giảm theo nội luật của nước đó cho đối tượng cư trú khi tính thuế thu nhập của các đối tượng này.


1.9.3. Các biện pháp tránh đánh thuế hai lần theo pháp luật tránh đánh thuế hai lần của Việt Nam


Các biện pháp tránh đánh thuế hai lần của Việt Nam là các phương pháp tránh đánh thuế hai lần mà Việt Nam có nghĩa vụ áp dụng với tư cách là nước cư trú. Tuỳ theo cam kết cụ thể ở từng Hiệp định, Việt Nam thực hiện một biện pháp hoặc kết hợp các biện pháp tránh đánh thuế hai lần (Các biện pháp tránh đánh thuế hai lần của Việt Nam được quy định tại Phần C Thông tư số 133/2004/TT-BTC) như sau:


- Biện pháp thứ nhất là khấu trừ thuế, theo đó, trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và đã nộp thuế tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam, nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.


khấu trừ thuế thì khi đối tượng cư trú này kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của luật thuế Việt Nam và số tiền thuế đã nộp ở nước ký kết sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ nước ký kết theo luật thuế Việt Nam.

Các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và nước ngoài - 5


- Biện pháp thứ hai là khấu trừ số thuế khoán : Số thuế khoán là số thuế lẽ ra đối tượng cư trú của Việt Nam phải nộp tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam trên khoản thu nhập phát sinh tại nước ký kết đó, nhưng theo quy định tại luật của nước ký kết đó được miễn hoặc giảm như một biện pháp ưu đãi đặc biệt.


Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập và phải nộp thuế tại nước ký kết Hiệp định với Việt Nam (theo mức thuế được miễn hoặc giảm như một ưu đãi đặc biệt), nếu tại Hiệp định, Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp khấu trừ số thuế khoán thì khi đối tượng cư trú đó kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của luật thuế Việt Nam và số tiền thuế khoán sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Số tiền thuế khoán được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ nước ngoài theo luật thuế Việt Nam.


- Biện pháp thứ ba là khấu trừ gián tiếp : Số thuế gián tiếp được khấu trừ là số thuế do một công ty cổ phần là đối tượng của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam đã nộp tại nước ký kết đó dưới hình thức thuế thu nhập công ty trước khi chia lãi cổ phần cho đối tượng cư trú của Việt Nam với điều kiện


đối tượng cư trú của Việt Nam kiểm soát trực tiếp một tỷ lệ tối thiểu quyền bỏ phiếu của công ty cổ phần (thường các Hiệp định quy định là 10%).


Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam có thu nhập từ nước ký kết Hiệp định với Việt Nam mà khoản thu nhập này đã chịu thuế thu nhập công ty trước khi được chia cho đối tượng đó và tại Hiệp định Việt Nam cam kết thực hiện biện pháp khấu trừ thuế gián tiếp thì khi kê khai thuế thu nhập tại Việt Nam, các khoản thu nhập đó sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế tại Việt Nam theo quy định của Luật thuế Việt Nam và số thuế gián tiếp đã nộp ở nước ký kết sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp tại Việt Nam. Số thuế được khấu trừ không vượt quá số thuế phải nộp tại Việt Nam tính trên thu nhập từ nước ngoài theo luật thuế Việt Nam.


Các khoản thu nhập từ nước ngoài của đối tượng cư trú Việt Nam được miễn thuế tại Việt Nam thì khoản thu nhập này sẽ được miễn thuế và không được trừ số thuế đã nộp tại nước ngoài (tức là chỉ bị đánh thuế một lần và không phải áp dụng biện pháp tránh đánh thuế hai lần). Ví dụ như tiền học bổng của học sinh và sinh viên nước ngoài trong thời gian học tại Việt Nam.


1.9.4. Thủ tục thực hiện biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt

Nam


Để được áp dụng các biện pháp tránh đánh thuế hai lần, đối tượng nộp thuế thuộc diện điều chỉnh của Hiệp định phải làm các thủ tục để chứng minh họ là đối tượng cư trú của Việt Nam hoặc đối tượng cư trú của nước ký kết Hiệp định với Việt Nam; xác nhận số thuế đã nộp tại Việt Nam đối với đối tượng cư trú của nước ngoài hoặc xác nhận số thuế đã nộp ở nước ngoài đối với đối tượng cư trú của Việt Nam. Trên cơ sở đó, cơ quan thuế của nước ký


kết Hiệp định sẽ thực hiện việc miễn, giảm, khấu trừ số thuế đã nộp ở nước ký kết Hiệp định khi tính thuế thu nhập phải nộp ở nước cư trú.


Thủ tục thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần ở từng nước ký kết do nội luật của nước đó quy định. Các thủ tục thực hiện biện pháp tránh đánh thuế hai lần theo quy định của Hiệp định tại Việt Nam được quy định tại Phần D Thông tư số 133/2004/TT-BTC và Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế. Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan trực tiếp thực hiện các thủ tục và áp dụng các biện pháp tránh đánh thuế hai lần.


Kết luận Chương 1


Xóa bỏ tình trạng đánh thuế hai lần là cần thiết đối trong việc phát triển và hợp tác kinh tế quốc tế của các quốc gia nói chung, đặc biệt là đối với Việt Nam trong bối cảnh nước ta đang từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới và có nhu cầu thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển nền kinh tế. Việc hợp tác với các nước có quan hệ kinh tế để xóa bỏ tình trạng đánh thuế hai lần cũng phù hợp với đường lối đối ngoại rộng mở của Việt Nam đã được nêu tại Điều 14 Hiến pháp 1992: “ Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi; tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng; tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu


tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”.


Nhằm xóa bỏ tình trạng đánh thuế hai lần, Hiệp định đã định ra các nguyên tắc phân định quyền đánh thuế của Việt Nam và nước ký kết, các biện pháp tránh đánh thuế hai lần mà nước cư trú có nghĩa vụ áp dụng trong trường hợp cả hai nước đều có quyền đánh thuế. Căn cứ xác định nước nào là nước cư trú, nước nào là nước có nguồn thu nhập, quyền đánh thuế của mỗi nước đối với từng loại thu nhập được trình bày cụ thể ở Chương 2 dưới đây.


CHƯƠNG 2: PHÂN ĐỊNH QUYỀN ĐÁNH THUẾ GIỮA HAI NƯỚC KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH‌


2.1. Phân định quyền đánh thuế theo nơi cư trú và nơi có nguồn thu nhập


Đề xác định quyền, nghĩa vụ của một nước ký kết trong việc đánh thuế theo phạm vi điều chỉnh của Hiệp định đòi hỏi phải xác định nước đó đánh thuế với tư cách là nước cư trú hay nước có nguồn thu nhập. Việc xác định này được thực hiện thông qua xem xét đối tượng nộp thuế là đối tượng cư trú của nước nào. Sau khi xác định được một nước ký kết là nước cư trú, nước ký kết còn lại là nước có nguồn thu nhập.


Việc xác định quyền đánh thuế của một nước ký kết đối với thu nhập thu được từ hoạt động của một doanh nghiệp của một nước ký kết kia thu được trên lãnh thổ một nước ký kết thứ nhất được xem xét trên cơ sở xác định doanh nghiệp đó có hay không có cơ sở thường trú trên lãnh thổ nước đó, nếu có thì nước đó (nước có cơ sở thường trú của doanh nghiệp) có quyền đánh thuế với tư cách nước có nguồn thu nhập.


2.1.1. Đối tượng cư trú


2.1.1.1. Quy định của Hiệp định về đối tượng cư trú


Các quy định về đối tượng cư trú thường được quy định tại Điều 4 của Hiệp định. Nội dung quy định về đối tượng cư trú của các Hiệp định là giống nhau, như Điều 4 Hiệp định giữa Việt Nam và Thụy sỹ ký năm 1996 quy định về đối tượng cư trú như sau: "1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật ngữ "đối tượng cư trú của một nước ký kết" có nghĩa là bất cứ đối tượng nào, mà theo các luật của nước đó, là đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư


trú, quốc tịch, trụ sở điều hành hoặc các tiêu chuẩn khác có tính chất tương tự.


2. Trường hợp theo những quy định tại khoản 1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai nước, thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:


a.Cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở cả hai nước cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của quyền lợi chủ yếu)


b. Nếu như không thể xác định được nước ký kết nơi cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước mà cá nhân đó thường sống;


c. Nếu cá nhân đó thường sống ở cả hai nước hay không sống thường xuyên ở nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước mà cá nhân đó mang quốc tịch.


d. Nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc tịch của cả hai nước hay không mang quốc tịch của nước nào, nhà chức trách có thẩm quyền của hai nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.


3. Trường hợp do những quy định tại khoản 1, khi một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai nước ký kết, lúc đó, đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú của nước nơi đóng trụ sở điều hành thực tế của đối tượng đó.".


Xuất phát từ mối liên hệ có tính gắn bó với một nước mà một đối tượng (cá nhân, doanh nghiệp) có nghĩa vụ thuế đầy đủ (cả thu nhập phát sinh trong và ngoài lãnh thổ nước đó) với nước đó. Pháp luật thuế của các nước thường xác định mối liên hệ gắn bó với một nước dựa vào các mối quan hệ của đối tượng tại một nước như quan hệ cư trú, nhà ở, quốc tịch.... Khi một đối tượng thỏa mãn các tiêu chí này thì được xác định là đối tượng cư trú của một nước. Việc một đối tượng phải chịu thuế do có thu nhập phát sinh tại một nước không tạo ra đối tượng cư trú của nước có nguồn thu nhập do việc đánh thuế chỉ thuần túy trên cơ sở thu nhập của đối tượng này phát sinh trên lãnh thổ nước mình mà không xuất phát từ những mối liên hệ có tính gắn bó của đối tượng với nước đó.


Khái niệm "đối tượng cư trú" không những chỉ giải quyết vấn đề xác định nghĩa vụ thuế mà còn có ý nghĩa trong việc xác định phạm vi áp dụng của Hiệp định. Theo Điều 1 của Hiệp định thì chỉ đối tượng cư trú của một trong hai hoặc cả hai nước ký kết mới thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định. Nếu không phải hoặc không chứng minh được là đối tượng cư trú của một nước ký kết Hiệp định thì sẽ không thuộc phạm vi áp dụng của Hiệp định và không được hưởng quy chế tránh đánh thuế hai lần.


Hiệp định không quy định các tiêu thức để xác định đối tượng cư trú (theo góc độ thuế và phục vụ cho việc đánh thuế), mỗi nước ký kết xác định đối tượng cư trú theo nội luật của nước mình.


Pháp luật thuế của các nước sử dụng các tiêu thức cụ thể mà qua các tiêu thức này thể hiện mối liên hệ gắn bó giữa đối tượng với một nước như nhà ở thường trú, nơi cư trú, thời gian cư trú, trụ sở điều hành..., và do đó tạo cơ sở cho việc đánh thuế. Do việc xác định đối tượng cư trú theo nội luật của

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 21/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí