Một Số Đề Xuất Nâng Cao Vai Trò Của Các Định Chế Tài Chính Ở Việt Nam

b. Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư.‌‌

2. Giai đoạn năm 2010 – 2020

Tăng quy mô, chất lượng công ty chứng khoán theo hướng tái cấu trúc (phá sản, thâu tóm, sáp nhập); giảm số lượng công ty chứng khoán từ trên 100 như hiện nay xuống khoảng 50 công ty (bình quân thị phần mỗi công ty chứng khoán là 4 tỷ USD).

II. Một số đề xuất nâng cao vai trò của các định chế tài chính ở Việt Nam

1. Đối với Nhà nước

1.1. Tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định

Kinh nghiệm các nước cho thấy môi trường kinh tế vĩ mô có tác động vô cùng quan trọng tới sự hình thành và phát triển của TTCK. Sự ổn định về chính trị và tăng trưởng kinh tế là yếu tố rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển TTCK. Bên cạnh đó cũng phải chú ý đến vấn đề tập quán, thói làm ăn nhỏ manh mún của phần lớn công chúng qua đó mà có những tác động định hướng, tạo sự hiểu biết mới, hình thức đầu tư mới để công chúng quen dần và coi đó là là một hình thức để có thể thực hiện được đối với bất cứ ai có vốn, có ý muốn đầu tư. Không những thế còn phải duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức hợp lý (7-9%), lạm phát được kiểm soát, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất được bình ổn mới tạo được sự tin tưởng của các NĐT và của người dân khi đầu tư vào CK. Ngược lại khi nền kinh tế có những biểu hiện sa sút, mất ổn định sẽ ảnh hưởng mạnh đến khả năng sinh lời của việc đầu tư CK, các NĐT sẽ dừng hoạt động đầu tư vào CK và như vậy số lượng đầu tư giảm làm cho TTCK hoạt động kém hiệu quả và có thể đi đến đổ vỡ. Thực tế đã chứng minh rằng nhân tố đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường mới nổi trong những thập kỷ qua ở phần lớn là các nước đang phát triển có sự kết hợp linh hoạt giữa định hướng phát triển nền kinh tế thị trường với vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong hoạt động của TTCK. Ngoài ra vấn đề này còn cần được sự hỗ trợ mạnh mẽ bởi

việc gia tăng các ĐCTC trung gian tham gia vào các hoạt động trên thị trường vốn như công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm…

Trở lại hoàn cảnh nước ta hiện nay, năm 2009, kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 5,32%, vượt mục tiêu đề ra và đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu vực và trên thế giới. Theo Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á 2010 do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 13/4/2010 tại Hà Nội, nhờ các giải pháp chính sách kịp thời và mạnh mẽ, Việt Nam đã vượt qua suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009, dự kiến sẽ tăng trưởng cao hơn vào năm 2010 và 2011. Cũng theo dự báo này, Việt Nam đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á với mức tăng trưởng GDP 6,5% năm nay và 6,8% năm 2011. Vì vậy, có thể thấy Việt Nam hoàn toàn có đủ cơ hội và điều kiện phát triển TTCK nếu biết tận dụng các nguồn lực sẵn có và trên cơ sở một nền kinh tế vĩ mô bền vững.

Tuy nhiên, làm được điều này không hề dễ dàng trong khi các biện pháp kích thích kinh tế cũng tạo nên sức ép lạm phát và phá giá tiền tệ. Do vậy, Việt Nam cần có giải pháp tập trung ổn định kinh tế vĩ mô hơn là tăng trưởng nhanh, đồng thời, cải thiện hiệu quả nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững với tư cách là một nước có thu nhập trung bình. Ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tạo ra niềm tin cho các NĐT và đây sẽ là yếu tố chính giúp Việt Nam thu hút lượng đầu tư nước ngoài lớn vào TTCK trong thời gian sắp tới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

1.2. Tạo lập thị trường tiền tệ vững mạnh

Ở nước ta hiện nay, thị trường tiền tệ do NHNN quản lý và điều hành, là một phương tiện để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Thị trường tiền tệ luôn tồn tại song song với thị trường vốn mà cụ thể là TTCK. Hai thị trường này có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau, tạo ra một cơ chế tài chính hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho các tổ chức phát hành, các tổ chức kinh doanh và tạo ra một thị trường tài chính ổn định cho quốc gia. Thị trường tiền tệ cung cấp cơ hội huy động vốn ngắn hạn trong khi TTCK lại tạo cơ hội huy động vốn dài hạn cho các tổ chức phát hành, mở ra một cơ chế hoàn chỉnh

Các định chế tài chính và vai trò đối với thị trường chứng khoản Việt Nam - thực trạng và đề xuất - 11

cho mọi tổ chức khi tham gia vào thị trường. Chính vì mối quan hệ chặt chẽ giữa hai thị trường nên sự phát triển vững chắc của thị trường tiền tệ cũng có ý nghĩa hoàn thiện TTCK.

Trên phương diện quản lý, NHNN phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chương trình tăng cường năng lực và tính cạnh tranh cho các thành viên của thị trường cũng như những khuyến khích về tài chính cho các thành viên trong thời gian tới. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đóng vai trò là thành viên chính của thị trường tiền tệ, mọi giao dịch trên thị trường tiền tệ hầu như đều diễn ra giữa các ngân hàng với nhau. Do đó, nên thúc đẩy phát triển và lành mạnh hóa thị trường tiền tệ cũng đồng nghĩa với việc hiện đại hóa và cải tổ hệ thống ngân hàng.

1.3. Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam và công tác pháp chế của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Sau 3 năm thực hiện Luật Chứng khoán 2006, TTCK đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận mà đặc biệt là thông qua TTCK, tổng khối lượng vốn huy động phục vụ cho đầu tư phát triển lên tới 200.000 tỷ đồng, luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng từ mức 4,5 tỷ USD lên trên 10 tỷ USD.

Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, nhiều quy định trong Luật Chứng khoán 2006 liên quan tới phát hành cổ phiếu riêng lẻ, phát hành cổ phiếu ra công chúng, cổ phần hoá gắn với TTCK... đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần phải được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật chặt chẽ hơn, ví dụ:

- Do Luật Chứng khoán 2006 không có quy định bắt buộc các DNNN khi tiến hành cổ phần hoá phải gắn với việc niêm yết hoặc giao dịch cổ phiếu trên TTCK có tổ chức, nên hầu hết DN sau khi cổ phần hoá không thực hiện yêu cầu này. Điều này đã góp phần thúc đẩy giao dịch trên thị trường tự do, vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro, chứa đựng nhiều nguy cơ lừa đảo do nhà đầu tư không có thông tin đầy đủ, thông tin không chính thống, thiếu minh bạch... và đặc biệt không chịu sự quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước.

- Luật Chứng khoán 2006 không có quy định nào về việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ (phát hành cho dưới 100 NĐT), dẫn đến việc nhiều DN thay vì

phát hành cổ phiếu ra công chúng, đã tiến hành nhiều đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ và phân phối cổ phiếu ra đại chúng thông qua việc mua đi, bán lại quyền mua, không bảo đảm lợi ích của các cổ đông hiện hữu.

- Luật Chứng khoán 2006 chưa quy định chặt chẽ về việc giám sát phương án sử dụng vốn của DN. Một thực tế hiện nay là một số DN phát hành cổ phiếu huy động vốn, nhưng hai tháng sau lại công bố mua cổ phiếu quỹ nên khó xác định được DN thực sự cần vốn cho phát triển kinh doanh hay vì mục đích khác.

Bên cạnh Luật Chứng khoán 2006, có quá nhiều các văn bản dưới luật được ban hành, cũng có nhiều điểm thiếu chặt chẽ, ví dụ:

- Điều 29 Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK quy định mức xử phạt bằng tiền đối với hành vi vi phạm quy định về chào mua công khai chỉ từ 20 – 70 triệu đồng; ngoài ra, cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là đình chỉ, hủy bỏ đợt chào mua hoặc buộc tổ chức, cá nhân vi phạm phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả là thực hiện đúng quy định. Quy định xử phạt như vậy không tương xứng nên hành vi vi phạm này diễn ra rất nhiều.

- Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 194/2009/TT-BTC hướng dẫn chào mua công khai, thay thế Thông tư số 18, có hiệu lực từ ngày 15/11/2009. Tuy nhiên Thông tư số 194 không có quy định nào nhằm bảo đảm khả năng thanh toán của bên chào mua. Trong khi đó, Thông tư số 18 quy định về vấn đề này như sau: "Bên chào mua phải chỉ định CTCK làm đại lý thực hiện việc chào mua. Trước khi thực hiện chào mua, bên chào mua phải ký quỹ số tiền tương ứng 100% giá trị số cổ phiếu đăng ký chào mua tính theo giá chào mua". Đây là một rủi ro đối với các bên tham gia giao dịch chào mua công khai khi mà tổng giá trị giao dịch thường là một khoản lớn.

Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán 2006, đồng thời đồng bộ hóa Luật Chứng khoán mới với các văn bản dưới luật để hướng tới thu hẹp thị trường tự do, lành mạnh hoá và nâng cao năng lực hoạt động của các tổ

chức, cá nhân tham gia thị trường, góp phần thúc đẩy thị trường vận hành công khai, minh bạch.

1.4. Đổi mới quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán

- Xác định lại địa vị pháp lý của UBCKNN

Cần tách UBCKNN ra khỏi Bộ Tài chính, xác định đây là cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ, có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới hoạt động của TTCK. Từ khi thành lập tới nay, UBCKNN hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính nên giảm đi tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan chuyên ngành quản lý Nhà nước về CK và TTCK. Việc các giải pháp đưa ra đều phải chờ thời gian trình duyệt nên không phát huy kịp thời tác dụng đối với TTCK trong khi đây là một hệ thống nhạy bén cao trước bất kỳ một sự thay đổi nào trong nền kinh tế quốc gia và thế giới, từ đó sự biến động của TTCK lại ảnh hưởng đến tâm lý của các NĐT.

- Thành lập một cơ quan giám sát độc lập để trực tiếp giám sát các hoạt động trên TTCK

Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ, phụ trợ đắc lực cho UBCKNN. Cơ quan giám sát này sẽ thường xuyên giám sát việc chấp hành quy định do UBCKNN ban hành của các chủ thể trên thị trường để kịp thời có các biện pháp ngăn ngừa khi có các biểu hiện vi phạm.

- Hình thành các tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Việc hình thành các tổ chức xếp hạng tín nhiệm sẽ tạo ra sự hoàn thiện về thể chế của TTCK Việt Nam. Sự có mặt của tổ chức này sẽ giúp cho cả NĐT, nhà phát hành có cơ sở trong việc đánh giá, phân tích, lựa chọn công cụ đầu tư, xác định chi phí vốn… Chính phủ nên cho phép tổ chức hình thức xếp hạng tín dụng này dưới dạng công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh với các tổ chức tài chính trong nước để tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm, đồng thời đưa ra các báo cáo có chất lượng. Bên cạnh việc giám sát, cần có những quy định ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả xếp hạng của các tổ chức này, tránh lặp lại việc Công ty Thông tin tín nhiệm và xếp hạng doanh nghiệp (Vietnam

Credit) công bố một Báo cáo xếp hạng ngân hàng Việt Nam năm 2009 không hợp lý với chất lượng thực tế của các NHTM.

- Có các chế tài đủ mạnh để xử lý nghiêm khắc các vi phạm quy định về hoạt động trên TTCK

Khi TTCK phát triển, đối tượng vi phạm và hình thức vi phạm của các CTCK và các tổ chức phát hành ngày càng phổ biến và phức tạp. Cụ thể, các tổ chức phát hành thường vi phạm về việc công bố thông tin trong Báo cáo tài chính, phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ nhưng không đăng ký với UBCKNN, thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng khi chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng khoán… Một số CTCK không thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám sát trong các giao dịch của cổ phiếu hay tổ chức lưu giữ không đầy đủ chứng từ, không phản ánh chi tiết, chính xác các giao dịch của khách hàng, cho khách hàng thực hiện giao dịch bán CK khi không sở hữu CK… Vì vậy cần có các chế tài xử phạt mạnh hơn để buộc các DN ý thức rõ ràng và đầy đủ nghĩa vụ của mình trong việc công bố thông tin và thực hiện chế độ hạch toán, buộc các CTCK nâng cao ý thức về đạo đức nghề nghiệp đảm bảo các các nghiệp vụ không ảnh hưởng đến lợi ích của NĐT.

1.5. Lập quỹ bình ổn thị trường chứng khoán

TTCK vốn được xem là “phong vũ biểu” của nền kinh tế một quốc gia nên chỉ một biến động trên thị trường có thể gây ảnh hưởng đến mọi thành viên tham gia, trong đó có các ĐCTC. Vì vậy, rất cần thiết có một biện pháp có tính ổn định và áp dụng lâu dài để vực dậy thị trường sau những “cơn sóng” là lập quỹ bình ổn thị trường với sự tham gia góp vốn của Nhà nước, các tổ chức tài chính. Về nguyên tắc hoạt động, quỹ này sẽ mua vào khi thị trường rất thấp và giá trị cổ phiếu đã hấp dẫn, kết hợp với việc mua vào của các tổ chức lớn nhằm chặn đà suy giảm của cổ phiếu. Khi thị trường hồi phục, quỹ sẽ bán ra thanh lý quỹ hoặc Nhà nước chuyển nhượng lãi cổ phần cho khu vực tư nhân.

Kinh nghiệm ở một số nước, vào thời kỳ đầu của TTCK như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông đã hình thành quỹ bình ổn TTCK và đạt được một số kết

quả nhất định trong việc hỗ trợ thị trường tại những thời điểm khó khăn. Các ví dụ này chứng tỏ đây là ý tưởng tốt bởi khi thị trường xuống quá, quỹ có thể can thiệp, góp phần bình ổn thị trường, giúp tâm lý các NĐT ổn định hơn. Trong trường hợp có sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức thì quỹ sẽ góp phần can thiệp tốt tới thị trường.

Với tình hình ở Việt Nam hiện nay, nguồn đóng góp có thể lấy từ các ĐCTC thành viên thị trường (hơn 400 DN niêm yết, hơn 100 CTCK và 46 công ty quản lý quỹ). Ngoài ra, Chính phủ có thể tính đến việc trích một phần thặng dư trong quá trình cổ phần hoá để tham gia quỹ. Hay cũng có thể tính đến việc, NĐT chứng khoán phải nộp thuế và trích một phần trong số thuế thu được để tham gia Quỹ.

2. Đối với các định chế tài chính

2.1. Kết hợp các định chế tài chính tổ chức thành mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng

Khi phát triển đến mức độ nhất định và do nhu cầu của nền kinh tế, các định chế tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán luôn muốn mở rộng theo hướng hoạt động đa năng và quy mô toàn cầu thông qua những hình thức khác nhau như liên kết, hợp nhất, sáp nhập, thành lập các công ty trực thuộc. Mục tiêu của việc hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng là mở rộng quy mô hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn. Bên cạnh đó, việc hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng lớn mạnh không chỉ nâng cao được năng lực cạnh tranh cho các định chế tài chính, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính mà còn tạo thuận lợi cho công tác quản lý của Nhà nước.

Hiện nay, việc hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng đã và đang là một xu hướng tất yếu tại nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới. Vì thế, để hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu, các ĐCTC của Việt Nam nên học tập bước đi này.

Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một thực thể kinh tế gồm một nhóm doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng (tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán… hoặc các ngành khác liên quan đến hoạt động đầu tư). Mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, có mối liên kết nhất định về vốn, quản trị, thương hiệu, trong đó có một doanh nghiệp hoặc một ngân hàng đóng vai trò là công ty mẹ làm nòng cốt.

Cơ sở cho mô hình tập đoàn tài chính – ngân hàng như sau:

- Điều 26, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP đã có hướng dẫn bổ sung về tập đoàn kinh tế, theo đó khẳng định: “Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc các hình thức liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp doanh nghiệp trở lên dưới hình thức công ty mẹ – công ty con. Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Việc tổ chức hoạt động của tập đoàn do các công ty lập thành tập đoàn tự thỏa thuận quyết định”.

- Theo Bản thuyết minh chi tiết Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi (Dự thảo 8), tại Mục III.2 đã đưa ra hai loại ý kiến về việc đưa mô hình Tập đoàn Tài chính – ngân hàng vào trong Dự thảo Luật TCTD, theo đó:

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng Luật TCTD cần có quy định về tập đoàn ngân hàng là mô hình nhóm công ty được tổ chức dưới hình thức công ty mẹ – công ty con (phù hợp với quy định tại Chương VII Luật Doanh nghiệp). Theo đó, tập đoàn ngân hàng bắt buộc phải có công ty mẹ hoặc công ty con là ngân hàng với phạm vi hoạt động của tập đoàn chỉ giới hạn trong lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, đầu tư).

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Luật TCTD không nên điều chỉnh mô hình tập đoàn ngân hàng vì thực tế mô hình tập đoàn đang được thí điểm thực hiện, chưa có tính ổn định không nên đưa vào Luật TCTD mới.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 29/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí