KT - KS độc lập tiến hành. Có như vậy mới tạo được tính chủ động và bảo đảm tính khách quan trong quá trình KT - KS tại đơn vị. Như vậy, mặc dù thời gian tiến hành thanh tra - kiểm tra có thể ngắn, số lượng cán bộ không nhiều, nhưng với việc đổi mới tổ chức bộ máy và phương pháp thanh tra như trên vẫn bảo đảm nâng cao hơn chất lượng và hiệu quả công tác thanh tra - kiểm tra;
Năm là, Thành lập bộ phận theo dõi thực hiện các quyết định, kết luận sau “thanh tra, kiểm tra”
Trong thực tế, một trong những nguyên nhân các kết luận "thanh tra, kiểm tra" không được thực hiện do nguyên nhân chủ yếu từ ý thức chấp hành của đối tượng KT - KS; bên cạnh đó có nguyên nhân thuộc về các cơ quan, tổ chức KT - KS vì thiếu sự kiểm tra, đôn đốc. Điển hình, ngành Thanh tra ít quan tâm tới việc theo dõi, tổng hợp việc thực hiện các quyết định, kết luận sau "thanh tra, kiểm tra" do nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân về tổ chức là chưa có bộ phận cụ thể để thực thi nhiệm vụ. Do vậy, thành lập bộ phận theo dõi việc chấp hành các quyết định, kết luận sau "thanh tra, kiểm tra" đối với những quyết định, kết luận sau "thanh tra, kiểm tra" quan trọng là hết sức cần thiết;
Sáu là, Thành lập phòng (ban) Chống tham nhũng, lãng phí trực thuộc TTNN cấp tỉnh
Tham nhũng luôn là vấn đề bức xúc nhất của mọi quốc gia trên con đường phát triển đất nước, đặc biệt với những nước vừa trải qua giai đoạn cải cách, đổi mới hoặc có sự kiện biến động. Nhận thức rõ về tác hại to lớn của “quốc nạn” này, các nước trên thế giới trong đó Trung Quốc là nước điển hình đã và đang tiến hành hàng loạt biện phá kiểm tra, ngăn chặn, xử lý kiên quyết. Hoạt động chống tham nhũng đối với đảng viên do UBKT - kỷ luật TW Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành. Tổ chức này đưa ra quy định về tham nhũng trong hàng ngũ đảng viên. Đặc điểm nổi bật của quy định này là tạo ra một hệ thống kiểm soát xuyên suốt mọi cán bộ, bao gồm các kênh KT - KS trong đảng, nhà nước cùng cơ chế của hệ thống GSND (của dân chúng và giới báo chí).
Người dân Trung Quốc ủng hộ chủ trương chống tham nhũng của Chính phủ. Chủ trương chống tham nhũng không phải là điều mới đối với người dân Trung Quốc. Đảng, Chính phủ Trung Quốc có thái độ kiên quyết đối với “quốc nạn” tham nhũng, tập trung vào hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã khẳng định quyết tâm của Đảng chống tham nhũng và không khoan nhượng trước những trường hợp tham nhũng. Ông đã tuyên bố: Đảng không được mềm lòng trước các cán bộ tham nhũng.
Đi sâu nghiên cứu về tổ chức và hoạt động chống tham nhũng ở Hồng Công, Trung Quốc: Hoạt động chống tham nhũng ở Hồng Công do Uỷ ban độc lập chống
tham nhũng (gọi tắt là ICAC) thực hiện. ICAC được thành lập vào năm 1974 và được cơ cấu bao gồm 03 ban trực thuộc là Ban Điều tra, Ban phòng ngừa, Ban liên kết cộng đồng. Các nhiệm vụ của ICAC là: Truy bắt những kẻ tham nhũng thông qua việc phát hiện, điều tra và truy tố một cách hiệu quả; loại bỏ cơ hội tham nhũng bằng cách đưa ra hoạt động thực tiễn chống tham nhũng; giáo dục cộng đồng về nạn tham nhũng và khuyến khích sự trợ giúp của họ vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Hiện nay, Hồng Kông đã trở thành một trong những vùng ít tham nhũng nhất trên thế giới.
Đối với nước ta, từ kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng trong những năm qua, tham khảo kinh nghiệm của các nước trong đó có Trung Quốc và cụ thể ở Hồng Công như đã trình bày trên; cùng với cơ quan chuyên trách công tác phòng, chống tham nhũng ở TW, thành lập phòng (ban) Chống tham nhũng thuộc cấp tỉnh như một đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở địa phương.
Theo Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 quy định Chính phủ có nhiệm vụ: “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” [76, Điều 112 - Mục 7]. Trong bộ máy nhà nước ta, hệ thống TTNN được thành lập từ TW đến địa phương, ở TW có Thanh tra Chính phủ, ở địa phưong có Thanh tra tỉnh… được thành lập nhằm KT - KS việc chấp hành chính sách, pháp luật hành chính của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để phát hiện, phòng ngừa vi phạm và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, xử lý tham nhũng, tội phạm.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở TW nói chung, ở cấp tỉnh nói riêng, KT - KS phòng, chống tham nhũng, tội phạm rất cần thiết có cơ chế KT - KS và có cơ quan, tổ chức để thực hiện. Những khiếm khuyết về mặt tổ chức, những yếu kém về các lĩnh vực hoạt động, những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực của bộ máy nhà nước, nhất là ở cấp tỉnh chỉ có thể được phát hiện và xử lý thông qua cơ chế KT - KS. Tuy nhiên, các cơ chế KT - KS không phải là những yếu tố đứng ngoài, độc lập với nhà nước mà là một bộ phận của thể chế Nhà nước, có quan hệ khăng khít và biện chứng với các vấn đề về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở TW cũng như ở cấp tỉnh. Nếu chúng ta có các cơ chế KT - KS hữu hiệu thì chúng ta sẽ có bộ máy nhà nước trong sạch, vận hành tốt và ngược lại. Trong mối quan hệ này, việc hoàn thiện các cơ chế KT - KS luôn là tiền đề, là sự bảo đảm cho quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung, nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, tội phạm nói riêng vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước của dân, do dân và vì dân không thể tách rời việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động KT - KS, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần phòng, chống tham nhũng, tội phạm.
Để thực hiện phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở cấp tỉnh có hiệu quả cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và công dân và công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế, xã hội; thực hiện tốt công tác truyền thông về phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường giám sát của nhân dân và cá cơ quan dân cử; hợp tác quốc tề về phòng, chống tham nhũng và đặc biệt cần xây dựng cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống tham nhũng không những ở TW mà cần có ở cấp tỉnh.
Theo quy định tại Bộ luật hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2003) quy định: “ Cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án trong việc phát hiện và xử lý tội phạm. Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu có liên quan và kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án hình sự” [95, Điều 26, khoản 2]; Theo quy định tại Luật Phòng, chống tham nhũng (2005), một trong nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ là: “Xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng” [105, Điều76, khoản 2] đồng thời theo Luật Thanh tra, Luật khiếu nại, tố cáo của công dân thì hoạt động KT - KS của hệ thống các cơ quan TTNN là một biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, tội phạm có hiệu quả nhất ...
Từ các kết quả phân tích và tổng hợp trên cho thấy: Cấp tỉnh cần sớm thành lập phòng (ban) Chống tham nhũng và đặt tại Thanh tra tỉnh, đồng thời trao quyền điều tra ban đầu cho lực lượng thanh tra viên …;
Bẩy là, Đẩy nhanh tiến trình thành lập thêm các KTNN khu vực
Đổi mới công tác kiểm toán đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phi từ NSNN. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn kém hiệu quả, sức cạnh tranh chưa cao, thu chi ngân sách còn lãng phí, đặc biệt thất thoát, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản chưa được ngăn chặn. DNNN hạch toán không chính xác, hiện tượng tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi. KTNN cần nâng cao chất lượng hoạt động, đánh giá đúng mức và nhìn rõ yếu kém, thiếu sót của nền kinh tế, hướng dẫn cả hệ thống thanh tra - kiểm tra từ TW đến địa phương đẩy mạnh công tác thanh tra. KTNN cần đi sâu vào một số trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm toán thu chi NSNN, phát hiện ngăn chăn các hành vi lạm dụng quyền hạn chi tiêu sai chế độ chính sách. Tập trung kiểm toán lĩnh vực đầu tư XDCB, đẩy lùi một bước các hành vi tham nhũng tiêu cực. Lĩnh vực tài chính trong DN cần được quan tâm, ngăn chặn có hiệu quả hiện tượng hạch toán không chính xác, không trung thực làm mất nguồn thu … KTNN là một công cụ của Đảng và Nhà nước trong quản lý kinh tế, bảo vệ tài sản quốc gia. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cán bộ kiểm toán phải không ngừng rèn luyện phẩm chất, đạo
đức cách mạng và bản lĩnh nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, phấn đấu nâng cao chất lượng hoạt động KTNN.
Ở nước ta hiện nay, theo Luật KTNN: “Hoạt động KTNN phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản của nhà nước” [102, Điều 3]. Kết quả của hoạt động KTNN được “HĐND sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; TAND, Viện KSND và cơ quan điều tra sử dụng trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính” [102, Điều 9]. “KTNN được tổ chức và quản lý tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành, KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị sự nghiệp” [102, Điều 21]. “KTNN chuyên ngành là đơn vị trực thuộc KTNN, thực hiện kiểm toán theo chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức ở TW [102, Điều 22]. “KTNN khu vực là đơn vị trực thuộc KTNN, thực hiện kiển toán đối với cơ quan, tổ chức ở địa phương trên địa bàn khu vực và các nhiệm vụ kiểm toán khác theo sự phân công của Tổng KTNN. KTNN khu vực có tư cách pháp nhân, có con dấu, tài khoản và trụ sở riêng” [102, Điều 23]. “ Loại hình kiểm toán bao gồm: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Tổng KTNN quyết định loại hình kiểm toán của từng cuộc kiểm toán. Trường hợp kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc TW thì loại hình kiểm toán được thực hiện theo yêu cầu” [102, Điều 36].
Để đáp ứng nhu cầu kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực KT - TC hiện nay với khối lượng lớn và cần được theo dõi một cách hệ thống và do những bộ phận và cán bộ chuyên trách thực hiện đối với từng đơn vị cấp tỉnh. Đề nghị cho thành lập bổ sung nhanh các KTNN khu vực phục vụ cho cấp tỉnh.
Thứ hai: Tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ KT - KS
Trước mắt, Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ chủ yếu là giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan HCNN ở địa phương; giúp UBND giải quyết các khiếu nại hành chính, các tố cáo đối với những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; được quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật hoặc đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi vi phạm hành chính hay những vi phạm đến mức tội phạm.
Đây là vấn đề đặt ra rất cấp bách với hệ thống KT - KS trong tình hình mới. Đặc biệt, với những tỉnh sau quá trình sáp nhập và chia tách, đội ngũ cán bộ, công chức nói chung có nhiều biến động. Trong khi đó, trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như
những biến động trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý tác động, đòi hỏi rất cấp thiết về một đội ngũ cán bộ KT - KS có trình độ tương xứng. Để giải quyết nhu cầu cấp bách trong điều kiện hiện tại cần phối hợp nhiều giải pháp cụ thể như sau:
Một là, Xây dựng, đào tạo và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức KT - KS
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức KT - KS cấp tỉnh cần có lòng nhiệt tình, có đạo đức nghề nghiệp, có tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác KT - KS trong tình hình mới, cần tiếp tục xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức KT - KS có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với Tổ quốc Việt Nam, có trình độ chuyên môn.
Trong thời gian tới, phải nâng cao chất lượng cán bộ, công chức thông qua việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ thanh tra viên và kiểm soát viên. Bồi dưỡng thường xuyên thông qua phát động các phong trào tổng kết rút kinh nghiệm kết hợp với các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày về quản lý, về chuyên môn sâu theo từng loại nghiệp vụ. Bản thân từng thanh tra viên và kiểm soát viên phải coi trọng việc bồi dưỡng, tự đào tạo ngay trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao, nhằm không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân.
Kết hợp với các cuộc vận động dân chủ hoá, công khai hoá để phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ cán bộ, công chức KT - KS của cấp tỉnh. Đồng thời, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, cần kết hợp tinh giảm bộ máy quản lý theo hướng tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức KT - KS;
Hai là, Cải cách chế độ đãi ngộ về lương, phụ cấp, phương tiện làm việc đối với cán bộ, công chức làm KT - KS
Từ năm 2005, theo quy định hiện hành thanh tra viên và kiểm soát viên hưởng lương theo bảng lương thuộc hệ thống tiền lương các cơ quan hành chính. So với bảng lương của chuyên viên thì hệ số lương các ngạch thanh tra viên và kiểm soát viên là như nhau. Ngoài tiền lương, thanh tra viên và kiểm soát viên thị trường được hưởng phụ cấp trách nhiệm nghề theo một tỷ lệ từ 15% đến 25%. So với mức lương của viên chức các đơn vị sư nghiệp có thu và DN mức lương này là chưa phù hợp và hấp dẫn để các cơ quan thanh tra, kiểm tra có điều kiện tiếp nhận được cán bộ có chuyên môn.
Ngoài những bất cập chung về tiền lương và thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thì xét theo tính chất, đặc điểm công việc hiện tại và những yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, cho thấy chế độ tiền lương và phụ cấp của cán bộ, công chức KT - KS nhà nước như quy định trước năm 2005 có nhiều bất hợp lý và hiện nay chưa phù hợp, không tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Chế độ tiền lương thấp trong khi yêu cầu công việc nặng nề, phức tạp là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc khó thu hút được cán bộ có năng lực, trình độ làm công tác KT - KS. Từ đó, cho thấy
cần tiếp tục nghiên cứu thay đổi theo hướng cải cách chế độ tiền lương của cán bộ công chức làm công tác KT - KS nằm trong tổng thể
cải cách tiền lương của Nhà nước và đảm bảo tương xứng với nhiệm vụ được giao;
Ba là, Tăng cường trang bị, phương tiện làm việc của thanh tra viên và kiểm soát viên nhà nước
Trang bị, phương tiện làm việc hiện nay của thanh tra viên và kiểm soát viên nhà nước như phương tiện đi lại, phương tiện liên lạc, các phương tiện cần thiết khi thi hành nhiệm vụ ... cũng cần phải có sự chú ý đầu tư và trang bị một cách đồng bộ và hiện đại, tránh tụt hậu so với xã hội về phương tiện và công nghệ nhằm đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ có những thay đổi rất lớn trong ứng dụng khoa học - kĩ thuật vào mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Có quy hoạch cán bộ và đào tạo cơ bản, lâu dài ...
Từ những phân tích trên cho thấy: tăng cường chất lượng đội ngũ cán bộ KT - KS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đang là một đòi hỏi cấp bách.
3.3.2.2. Thiết lập hệ thống kiểm tra - kiểm soát hữu hiệu trên cơ sở mô hình tổ chức hệ thống kiểm tra - kiểm soát cấp tỉnh sau hoàn thiện
Thứ nhất: Trên cơ sở các giải pháp đã trình bày trên, một cách tổng quan Tác giả thiết lập các mô hình về tổ chức KT - KS cấp tỉnh trong lĩnh vực KT - TC (sau đây gọi tắt KT - KS cấp tỉnh) sau hoàn thiện theo các phương án khác nhau: Phương án 1 (tương ứng Sơ đồ số 3.1.a), Phương án 2 (tương ứng Sơ đồ số 3.1.b) và Phương án 3 (tương ứng Sơ đồ số 3.1.c);
Thứ hai: Trên cơ sở phương hướng và các giải pháp hoàn thiện hệ thống TTNN theo cấp và TTNN theo ngành ở tỉnh và GSND, Tác giả thiết lập mô hình Cơ cấu hệ thống TTNN Việt Nam sau hoàn thiện theo Sơ đồ 3.2. Tiếp đó là mô hình Cơ cấu hệ thống TTNN cấp tỉnh sau hoàn thiện theo Sơ đồ số 3.3.
Trên các sơ đồ này, cơ quan Thanh tra bộ và tổ chức TTCN thuộc Thanh tra cục trực thuộc Thanh tra bộ tại các bộ, ngành được tổ chức do Thanh tra bộ lãnh đạo song trùng với chỉ đạo, hướng dẫn của Thanh tra tỉnh;
Thứ ba: Trên cơ sở làm rõ tính chất của các Ban TTND và đổi tên gọi thành các Ban GSND ... Tác giả thiết lập mô hình thể hiện Mối quan hệ giữa hệ thống TTNN theo cấp với TTNN theo ngành và GSND ở cấp tỉnh sau hoàn thiện theo Sơ đồ số 3.4;
Thứ tư: Trên cơ sở các giải pháp hoàn thiện, tác giả trình bày sơ đồ Hệ thống tổ chức KT - KS tài chính cấp tỉnh sau hoàn thiện theo Sơ đồ số 3.5.
Sơ đồ số 3.1a. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
KIỂM TRA - KIỂM SOÁT CẤP TỈNH SAU HOÀN THIỆN
(B1)
HĐND CẤP TỈNH
(G) MTTQ CẤP TỈNH - BAN TTND - CÔNG LUẬN - CÔNG DÂN
(C4)
CÔNG AN CẤP TỈNH
(A) BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ CẤP TỈNH
(A1)
UBKT ĐẢNG
(B2) UBND CẤP TỈNH
(W)
CÁC CƠ QUAN KINH TẾ - TÀI CHÍNH TW
(B3)
VIỆN KSND CẤP TỈNH
(B4)
TOÀ ÁN HÀNH CHÍNH
- KINH TẾ
(C1)
CÁC CƠ QUAN KT - TC TRỰC THUỘC CẤP TỈNH
(C3)
CÁC SỞ, BAN, NGÀNH KHÁC
(C2)
HỆ THỐNG TTNN
(K)
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
(B) CÁC CQ CÔNG QUYỀN CỦA CẤP TỈNH
(Phương án 1: KTNN với vai trò KT - KS toàn bộ thu, chi Ngân sách và tài sản công…)
(D) DN, KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH | ||
HỘ GĐ | HỢP TÁC XÃ | NGOÀI QUỐC DOANH |
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện hệ thống kiểm tra kiểm soát cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế tài chính ở Việt Nam - 13
- Hoàn thiện hệ thống kiểm tra kiểm soát cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế tài chính ở Việt Nam - 14
- Hoàn Thiện Cơ Cấu Bộ Máy Kiểm Tra - Kiểm Soát Cấp Tỉnh Trong Lĩnh Vực Kinh Kinh Tế - Tài Chính Ở Việt Nam
- Hoàn thiện hệ thống kiểm tra kiểm soát cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế tài chính ở Việt Nam - 17
- Sự Cần Thiết Phải Tổ Chức Hệ Thống Thông Tin Kiểm Tra - Kiểm Soát
- Một Số Vấn Đề Về Mã Hoá Thông Tin Của Hệ Thống Kiểm Tra - Kiểm Soát Cấp Tỉnh
Xem toàn bộ 172 trang tài liệu này.
(E) CƠ QUAN, ĐƠN VỊ NHÀ NƯỚC | ||
DNNN | HCSN | KTSN |
Ghi chú: : Mối quan hệ phối hợp.
Sơ đồ số 3.1b: HỆ THỐNG TỔ CHỨC
KIỂM TRA - KIỂM SOÁT CẤP TỈNH SAU HOÀN THỊÊN
(B)
CÁC CQ CÔNG QUYỀN CỦA CẤP TỈNH
(B1)
HĐND CẤP TỈNH
(K)
KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC
(G) MTTQ CẤP TỈNH - BAN TTND - CÔNG LUẬN - CÔNG DÂN
(A) BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ CẤP TỈNH
(A1- C2)
UBKT ĐẢNG
- HỆ
THỐNG TTNN
(B2) UBND CẤP TỈNH
(W)
CÁC CƠ QUAN KINH TẾ - TÀI CHÍNH TW
(B3)
VIỆN KSND CẤP TỈNH
(B4)
TOÀ ÁN HÀNH CHÍNH
- KINH TẾ
(C1)
CÁC CƠ QUAN KT - TC TRỰC
THUỘC CẤP TỈNH
(C3)
CÁC SỞ, BAN, NGÀNH KHÁC
(C3)
CÔNG AN CẤP TỈNH
(Phương án 2: Hợp nhất TTNN với UBKT Đảng)
(D) DOANH NGHIỆP, KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH | |||
HỘ GĐ | HỢP TÁC XÃ | NGOÀI QUỐC DOANH | NHÀ NƯỚC |
(E) CƠ QUAN, ĐƠN VỊ NHÀ NƯỚC | |
HCSN | KTSN |
Ghi chú: Kết cấu của sơ đồ tương tự như phương án 01 nhưng có khác hợp nhất TTNN với UBKT Đảng.