Một Số Loại Tranh Chấp Về Thừa Kế Theo Di Chúc Cụ Thể

Viện kiểm sát, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được 74 vụ/ tổng số 170 vụ chiếm 43,53%; cho rút kháng cáo, kháng nghị 6 vụ chiếm 3,53%; còn lại 90 vụ chiếm 52,94%. Trong các vụ án đã giải quyết: Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 36 vụ chiếm 48,65%; sửa một phần án sơ thẩm 17 vụ chiếm 22,97%; hủy và đình chỉ tố tụng 3 vụ chiếm 4,05%; hủy giao sơ thẩm lại 16 vụ chiếm 21,62%; bác kháng cáo, kháng nghị vì không hợp lệ 1 vụ chiếm 1,35%; hòa giải thành 1 vụ chiếm 1,35% [46].

Năm 2002 Tòa án nhân dân cấp huyện đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm được 1.733 vụ/ tổng số 2.419 vụ chiếm 71,64% (tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung là 75,04%); còn lại 686 vụ chiếm 28,36%. Trong số các vụ án do Tòa án cấp huyện giải quyết, do có kháng cáo của đương sự và kháng nghị của Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết được 295 vụ/ tổng số 368 vụ chiếm 80,16% (tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh đối với án dân sự nói chung là 84,55%); cho rút kháng cáo 9 vụ chiếm 2,45%; còn lại 17,39%. Trong số này, giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 104 vụ chiếm 35,25%; sửa một phần bản án sơ thẩm 72 vụ chiếm 24,41%; hủy và đình chỉ tố tụng 4 vụ chiếm 1,36%; hủy giao sơ thẩm lại 40 vụ chiếm 13,56; hủy giao cơ quan hành chính khác giải quyết 2 vụ chiếm 0,6%; bác kháng cáo, kháng nghị do không hợp lệ 2 vụ chiếm 0,6%; hòa giải thành 18 vụ chiếm 6,1%; tạm đình chỉ 9 vụ chiếm 3,05%.

Năm 2002 Tòa án nhân dân tỉnh đã giải quyết theo thủ tục sơ thẩm được 100 vụ/ 185 vụ chiếm 54,05% (so với giải quyết án dân sự nói chung là 70%); còn lại 85 vụ chiếm 45,95%. Sau khi Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, do có kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát, nên các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã giải quyết được 53 vụ/ tổng số 113 vụ chiếm 46,9% (so với tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm án dân sự nói chung của 3 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao là 61,69%); số việc còn lại 60 vụ chiếm 53,1%. Trong số các vụ đã giải quyết: Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 30 vụ chiếm 56,6%; sửa một phần bản án sơ thẩm 7 vụ chiếm 13,21%; sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 1 vụ chiếm 1,89%; hủy và đình chỉ tố tụng 4 vụ chiếm 7,55%; hủy án giao sơ thẩm lại 11 vụ chiếm 20,75% [47].

Năm 2003 Tòa án nhân dân cấp huyện đã xét xử sơ thẩm được 1.870 vụ/ 3.156 vụ chiếm 59,25% (tỷ lệ giải quyết sơ thẩm án dân sự nói chung của Tòa án nhân dân cấp huyện 74,11%), còn lại 1.286 vụ chiếm 40,75%. Do có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã xử phúc thẩm được 627 vụ/ 771 vụ chiếm 81,32% (so với tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung là 80%); cho rút kháng cáo, kháng nghị 21 vụ chiếm 2,72%; còn lại 15,95%. Trong số các vụ án đã giải quyết thì giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 167 vụ chiếm 26,63%; sửa một phần bản án sơ thẩm 245 vụ chiếm 39,07%; sửa toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm 39 vụ chiếm 6,22%; hủy và đình chỉ tố tụng 33 vụ chiếm 5,26%; hủy giao sơ thẩm lại 127 vụ chiếm 20,26%; bác kháng cáo, kháng nghị do không hợp lệ 5 vụ chiếm 0,8%; hòa giải thành 7 vụ chiếm 1,12%; tạm đình chỉ 4 vụ chiếm 0,64%.

Năm 2003 Tòa án nhân dân tỉnh đã xét xử sơ thẩm được 220 vụ/ tổng số 373 vụ chiếm 58,98% (so với án dân sự nói chung là 63,05%); còn lại 153 vụ chiếm 41,02%. Do có kháng cáo, kháng nghị, các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã xét xử phúc thẩm được 86 vụ/114 vụ chiếm 75,44% (so với tỷ lệ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với án dân sự nói chung là 71,63%); cho rút kháng cáo, kháng nghị 5 vụ chiếm 4,39%; còn lại 23 vụ chiếm 20,18%. Trong số các vụ đã giải quyết thì giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm 52 vụ chiếm 60,47 %; sửa một phần bản án sơ thẩm 11 vụ chiếm 12,79%; sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 4 vụ chiếm 4,65%; hủy án và đình chỉ tố tụng 2 vụ chiếm 2,33%; hủy án sơ thẩm, giao sơ thẩm lại 14 vụ chiếm 16,28%; bác kháng cáo, kháng nghị vì không hợp lệ 1 vụ chiếm 1,16%; hòa giải thành 1 vụ chiếm 1,16 %; tạm đình chỉ 1 vụ chiếm 1,16%.

Qua các số liệu trên có thể cho thấy: Tỷ lệ giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp đối với các vụ án tranh chấp thừa kế còn thấp so với tỷ lệ giải quyết án dân sự nói chung. Nguyên nhân của tình trạng này là do các vụ án tranh chấp thừa kế thường khó khăn vì có nhiều các đương sự (so với các vụ án dân sự nói chung) nên việc triệu tập để lấy lời khai, hòa giải…mất nhiều thời gian. Nhiều đương sự (đặc biệt là bị đơn) gây khó khăn cho Tòa án: Không đến Tòa theo giấy triệu tập, không ký vào các biên bản lấy lời khai... Vì vậy, tỷ lệ án tồn đọng còn nhiều.

Vấn đề thứ hai là tỷ lệ các vụ án thừa kế bị hủy, bị sửa cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nguyên nhân của tình trạng bị hủy là do án sơ thẩm vi phạm tố tụng hoặc việc điều tra của Tòa án không đầy đủ (theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989).

Số lượng các vụ án được Tòa án hòa giải thành không nhiều. Nguyên nhân chính là do các Thẩm phán không kiên trì hòa giải, động viên đương sự hòa giải với nhau. Mặt khác, một nguyên nhân cũng không kém phần quan trọng, đó là: Việc tính chỉ tiêu 1 vụ xét xử bằng 1 vụ hòa giải thành đã tạo ra cho Thẩm phán thói quen xét xử, chứ không kiên trì hòa giải.

Việc hủy án để chuyển cho các cơ quan nhà nước khác giải quyết vẫn còn, điều này một mặt thể hiện trình độ của Thẩm phán còn có những điểm bất cập, nhưng cũng cần phải công nhận rằng hệ thống các văn bản pháp luật về tố tụng của Nhà nước ta trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, còn nhiều hạn chế.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.


sản

Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự - 11

3.2. Một số loại tranh chấp về thừa kế theo di chúc cụ thể


3.2.1. Tranh chấp về việc hiểu nội dung của di chúc: Cho hay cho sử dụng tài


Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc thì việc hiểu đúng nội dung di

chúc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chỉ khi hiểu đúng nội dung di chúc, các cấp Tòa án mới có thể giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Trong việc giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, có quan điểm cho rằng di chúc phải định đoạt cho ai, cho ai bao nhiêu tài sản… thì di chúc đó mới có hiệu lực. Nhưng cũng có quan điểm khác cho rằng, định đoạt được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau: Có thể là cho, nhưng cũng có thể chỉ cho sử dụng, cho hưởng lợi đến một giai đoạn nào đó...

Chúng tôi xin nêu ví dụ:


Cụ Phan văn Đờn và cụ Nguyễn Thị Kẻo có một con chung là ông Phan Văn Cư. Năm 1975, ông Cư rời Việt Nam, sang sinh sống tại Mỹ. Cụ Đờn và cụ Kẻo ở Việt Nam,

được các cháu trông nom, chủ yếu là ông Phan Văn Đấu. Cụ Đờn và cụ Kẻo tạo lập được căn nhà trên thửa đất có diện tích 1.442,6 m2 tại số nhà 23/5 Lê Hồng Phong, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Ngày 25-12-1993, ủy ban nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 300 m2 đất thổ cư, 583,2 m2 đất nông nghiệp cho cụ Phan Văn Đờn. Ngày 14-3-1996, cụ Đờn lập di chúc có nội dung: Để lại ngôi nhà trên đất thổ cư và đất nông nghiệp có diện tích 883,2 m2 cho ông Phan Văn Đấu được toàn quyền sử dụng, bảo quản ngôi nhà và diện tích đất để ở, không được bán, chuyển nhượng, trao đổi với người khác. Di chúc có chữ ký, điểm chỉ của cụ Đờn, có xác nhận của chính quyền địa phương.

Tháng 2-1997, cụ Kẻo chết. Tháng 10-1997, cụ Đờn chết. Ngày 19-7-2000 ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở 300 m2 cho ông Phan Văn Đấu và vợ là bà Vò Thị Quế.

Ông Cư cho rằng di chúc của cụ Đờn chỉ giao cho ông Đấu giữ hộ nhà đất. Ông Cư yêu cầu hưởng toàn bộ di sản của cụ Đờn và cụ Kẻo vì ông Cư là người thừa kế duy nhất. Ông Cư đồng ý trả công chăm sóc, nuôi dưỡng… hai cụ cho ông Đấu từ 40 triệu đồng đến 70 triệu đồng và đồng ý thanh toán giá trị các công trình mà ông Đấu đã xây dựng trên đất của cụ Đờn và cụ Kẻo.

Ông Đấu không đồng ý trả nhà đất cho ông Cư vì cho rằng cụ Đờn đã viết di chúc cho ông Đấu nhà đất và ông Đấu đã được ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà năm 2000.

Tại bản án sơ thẩm số 07/DSST ngày 12-6-2003 Tòa án nhân dân tỉnh B đã hủy một phần nội dung di chúc do cụ Phan Văn Đờn lập ngày 14-3-1996. Công nhận di sản thừa kế của cụ Kẻo để lại được xác định trong khối tài sản chung của cụ Đờn, cụ Kẻo trị giá 819.987.400đ.

Ông Phan Văn Cư được sở hữu 1/2 di sản thừa kế của cụ Kẻo là 409.993.700đ do ông Đấu giao lại bằng giá trị.

Ông Phan Văn Đấu được thừa hưởng di sản thừa kế của cụ Đờn theo ý chí di chúc lập ngày 14-3-1996. Ông Phan Văn Đấu được sở hữu, quản lý, sử dụng toàn bộ di

sản bao gồm nhà, đất, cây trồng tọa lạc tại ấp Phú Thuận, Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, nhưng ông Đấu phải thanh toán cho ông Cư 409.993.700đ.

Bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.


Ngày 15-6-2001 ông Cư kháng cáo: Ông mang quốc tịch Mỹ nhưng là người Việt Nam định cư tại nước ngoài có đầu tư về Việt Nam làm ăn, nên ông xin hưởng toàn bộ hiện vật vì ông không công nhận di chúc.

Ngày 21-6-2003 ông Đấu kháng cáo yêu cầu hưởng toàn bộ nhà đất, không đồng ý thanh toán cho ông Cư.

Tại bản án phúc thẩm số 281/ DSPT ngày 25-8-2003, Tòa phúc thẩm M đã xác định di chúc không có hiệu lực, sửa bản án sơ thẩm:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phan Văn Cư. Ông Phan Văn Cư được hưởng toàn bộ khối di sản của cụ Phan Văn Đờn và cụ Nguyễn Thị Kẻo để lại gồm: Căn nhà số 23/5 Lê Hồng Phong, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương trên diện tích đất 1.442,6 m2 gồm 300m2 đất thổ cư và 1.142,6 m2 đất nông nghiệp, tổng trị giá 1.639.974.800đ.

Ông Phan Văn Cư có quyền lập ủy quyền cho người đại diện nhận toàn bộ khối di sản trên do ông Phan Văn Đấu giao lại. Ông Phan Văn Cư được quyền liên hệ với chính quyền địa phương và cơ quan thi hành án để thực hiện việc nhận thừa kế khối di sản trên theo quy định tại Nghị định số 81/2001/NĐ-CP ngày 5-11-2001 của Chính phủ.

Buộc ông Phan Văn Đấu phải giao lại toàn bộ khối di sản do cụ Phan Văn Đờn và cụ Nguyễn Thị Kẻo để lại cho đại diện của ông Phan Văn Cư nhận cả phần diện tích nhà, vật kiến trúc khác mà ông Đấu đã xây dựng nguyện trạng theo biên bản định giá ngày 23-10-2002.

Buộc ông Phan Văn Cư phải hoàn lại cho ông Phan Văn Đấu giá trị nhà, vật kiến trúc khác trên đất với số tiền 131.664.000đ.

Hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 295/GCN/2000 ngày 19-7-2000 do ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã cấp cho ông

Phan Văn Đấu và bà Vò Thị Quế về sở hữu nhà số 23/5 Lê Hồng Phong, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương và 300m2 đất ở và các loại giấy tờ khác đã cấp cho ông Phan Văn Đấu có nguồn gốc từ di sản của cụ Phan Văn Đờn và cụ Nguyễn Thị Kẻo để lại.

Bản án còn tuyên án phí.


Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Phan Văn Đấu có nhiều đơn khiếu nại yêu cầu được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm.

Qua vụ án trên, thấy rằng: Việc hiểu nội dung di chúc, đánh giá hiệu lực pháp luật di chúc của Tòa án hai cấp có sự khác nhau. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng di chúc của cụ Đờn đã định đoạt cho ông Đấu toàn bộ di sản là tài sản chung của cụ Đờn và cụ Kẻo là không đúng, nhưng cũng có hiệu lực đối với phần di sản của cụ Đờn. Vì vậy, 1/2 nhà đất tại 23/5 Lê Hồng Phong, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thuộc sở hữu của ông Đấu theo di chúc của cụ Đờn, còn 1/2 thuộc sở hữu của ông Cư (hưởng phần di sản của cụ Kẻo).

Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng, di chúc của cụ Đờn không phát sinh hiệu lực vì cụ Đờn chỉ cho ông Đấu sử dụng nên thực chất là ông Đấu chỉ có quyền quản lý di sản. Vì vậy, khi ông Cư (người thừa kế theo pháp luật duy nhất của cụ Đờn) yêu cầu thì ông Đấu phải trả lại di sản.

Qua nghiên cứu vụ án trên, chúng tôi thấy rằng: Di chúc đề ngày 14-3-1996 của cụ Đờn có nội dung để lại ngôi nhà 23/5 Lê Hồng Phong, phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương cho ông Đấu được toàn quyền sử dụng, bảo quản ngôi nhà và diện tích đất để ở, không được bán, chuyển nhượng cho người khác. Với nội dung di chúc trên, cụ Đờn đã tự nguyện chuyển một số quyền tài sản của mình cho ông Đấu sau khi cụ Đờn chết. Cụ Đờn vừa ký, vừa điểm chỉ vào di chúc, có xác nhận của chính quyền địa phương, do vậy, di chúc của cụ Đờn đủ điều kiện là di chúc hợp pháp. Mặc dù di chúc của cụ Đờn không trao quyền định đoạt cho ông Đấu, nhưng sự hạn chế này không trái pháp luật. Theo di chúc thì ông Đấu chỉ được chiếm hữu, sử dụng phần tài sản thuộc quyền sở hữu của cụ Đờn cho đến khi ông Đấu chết. Sau khi ông Đấu chết, di sản của cụ

Đờn sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Bản án phúc thẩm cho rằng di sản của cụ Đờn chưa được định đoạt bởi di chúc nên đã không chấp nhận di chúc, chia toàn bộ di sản của cụ Đờn theo pháp luật là chưa áp dụng đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, di chúc của cụ Đờn đã định đoạt toàn bộ tài sản chung của cụ Đờn và cụ Kẻo là không đúng. Do vậy, di chúc của cụ Đờn chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với phần di sản của cụ Đờn.


3.2.2. Tranh chấp khi một người để lại nhiều di chúc khác nhau


Thực tế cho thấy, không phải ai khi chết cũng để lại di chúc. Tuy nhiên, cũng có những người để lại nhiều di chúc định đoạt một loại tài sản. Khi có tranh chấp xảy ra thì di chúc sau cùng của người lập di chúc có giá trị pháp lý.

Chúng tôi xin nêu ví dụ:


Cụ Lê Thị Mẹo có một con trai là Lê Vinh Sang. Ông Sang (chết năm 1975) có vợ là Lan và có 3 con chung là: Lê Thị Ngọc ánh, Lê Thị Ngọc Mỹ và Lê Thị Bạch Tuyết. Cụ Mẹo tạo lập được thửa đất 1.972,9 m2 gồm 100m2 đất thổ cư và 1.872,9 m2 đất nông nghiệp trồng cây hàng năm tại phường Đức Long, thành phố P, tỉnh B có giá trị 31.979.000đ. Năm 1975, cụ Mẹo đứng tên xây dựng nhà cấp 2B trị giá 174.722.000đ và tường bao quanh trị giá 18.816.000đ.

Cụ Mẹo chết ngày 4-5-2001, để lại 4 di chúc:


- Di chúc thứ nhất ngày 20-4-1993: Cụ Mẹo để lại căn nhà 692 đường Trần Hưng Đạo, phường Đức Long, thành phố P và đất vườn cho Tòa giám mục thành phố P.

- Di chúc thứ hai ngày 20-2-1995: Hiện tôi (Mẹo) là chủ mảnh đất thổ cư và đất vườn tại phường Phước Long với diện tích 1840 m2. Tôi (Mẹo) đã được Sở Xây dựng B xét cấp giấy phép cho xây dựng một ngôi nhà kiên cố để ở trên diện tích 100 m2 nhà chính, chưa kể nhà phụ. Nhưng bản thân tôi không đủ khả năng tài chính để thực hiện ý định của mình, đồng thời không thể sống tự lập trong tuổi già, có thể chết bất ngờ. Do đó, tôi làm chúc thư giao cho Đức giám mục Huỳnh Văn Nghi và Giáo hội công giáo được toàn

quyền sở hữu chủ toàn bộ nhà đất. Sau khi tôi qua đời, Giáo hội được quyền bán hoặc sang nhượng.

Bù lại, tôi kính xin Đức giám mục và Giáo hội giúp đỡ tôi xây dựng một căn nhà theo thiết kế đã được xét duyệt, nâng đỡ cuộc sống tuổi già của tôi cho đến chết…

Di chúc được cụ Mẹo ký tên, có xác nhận của công chứng nhà nước.


- Di chúc thứ 3 (ngày 21-7-1996): Xin dâng cúng cho xứ đạo hiện do linh mục Nguyễn Tiến Huynh làm chứng toàn bộ tài sản của tôi (Mẹo) gồm: 1 mảnh đất thổ cư + đất vườn 1804m2, 1 căn nhà xây kiên cố 200m2 và của cải trong nhà và trong vườn. Linh mục Nguyễn Tiến Huynh và các linh mục kế vị đại diện giáo xứ sở hữu chủ toàn quyền sử dụng phục vụ lợi ích chung...

Người thay mặt tôi (Mẹo) đứng ra thực hiện di chúc này là linh mục Nguyễn Văn Lạc. Linh mục Lạc có thể ủy quyền cho bất cứ linh mục nào nếu được sự đồng ý của Đức giám mục P...

Di chúc có lăn tay của cụ Mẹo, có 2 người làm chứng, có chữ ký của người đánh máy, có xác nhận của Phòng Công chứng nhà nước số 1.

- Di chúc thứ 4 được cụ Mẹo lập ngày 17-2-2000 có nội dung: Cụ Mẹo giao toàn bộ tài sản gồm 1.840m2 đất và vườn cùng ngôi nhà xây 100m2 cho bà Lê Thị Bạch Tuyết. Bà Tuyết được toàn quyền định đoạt số tài sản này.

Các giấy tờ định đoạt nhà đất ghi trước chúc thư này đều không có giá trị.


Di chúc được cụ Mẹo lăn tay, ký, có xác nhận của ủy ban nhân dân phường Đức

Long.


Sau khi cụ Mẹo chết, Tòa giám mục thành phố P yêu cầu: Được thừa kế theo di

chúc 1995, 1996 của cụ Mẹo, hưởng toàn bộ di sản của của Mẹo.


ý kiến bà Tuyết: Cụ Mẹo có di chúc lập ngày 17-2-2000 cho bà được hưởng toàn bộ nhà đất. Vì vậy, bà Tuyết đề nghị bác yêu cầu của nguyên đơn.

Bản án sơ thẩm 09/DSST ngày 18-4-2003 của Tòa án nhân dân thành phố P đã nhận định:

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 23/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí