Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số



Thời gian dành cho học tập trong ngày nhiều, nhưng do còn bị chi phối bởi cách học, kế hoạch học, động cơ học tập nên mức độ thực hiện nội dung công việc còn hạn chế. Phần lớn học sinh chỉ chú ý đến những bài học, bài tập mà giáo viên sẽ kiểm tra ngày hôm sau.

Sự nỗ lực của bản thân học sinh trong tự học chưa cao, khi gặp khó khăn trong học tập (một bài tập khó, một vấn đề chưa hiểu…) hầu hết các em bỏ qua, chỉ một số ít hỏi thầy, hỏi bạn hoặc tự mày mò, tiếp tục suy nghĩ tìm tài liệu để giải quyết vấn đề.

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học của học sinh dân tộc thiểu số

Hoạt động tự học của học sinh dân tộc thiểu số nói chung và hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an nói riêng không tách rời các điều kiện tác động, bao gồm hai yếu tố chính là yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan.

* Yếu tố khách quan là các yếu tố tác động từ bên ngoài vào chủ thể đó là người học, bao gồm:

- Đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước; các nghị quyết, chỉ thị, thông tư, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an .v.v. có liên quan tới quá trình giáo dục đào tạo của thầy và trò nhà trường.

- Nội dung chương trình đào tạo của nhà trường, mà đối với học sinh THPT đó chính là nội dung chương trình, sách giáo khoa. Đối với học sinh trường Văn hoá I, ngoài chương trình THPT còn chương trình đào tạo hướng nghiệp theo ngành Công an. Ngoài nội dung chương trình đào tạo thì phương pháp dạy học của giáo viên là yếu tố ảnh hưởng lớn tới năng lực và hiệu quả tự học của học sinh.

- Các điều kiện cơ sở vật chất như ký túc xá, phòng học, thư viện, hệ thống mạng Internet, phương tiện thiết bị, sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo .v.v. phục vụ cho dạy học.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

- Thời gian dành cho tự học: Hoạt động tự học đòi hỏi phải có quỹ thời gian phù hợp, nên học sinh phải bố trí kế hoạch thật khoa học để đảm bảo quá trình tự học đạt hiệu quả.

- Tổ chức quản lý học sinh tự học: Hoạt động tự học là hoạt động mang tính tự giác, độc lập cao nhưng không thể tách rời công tác tổ chức quản lý để học sinh nâng cao tính tích cực, tự giác học tập.

Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh trường Văn hoá I - Bộ Công an - 3



- Sự tác động của gia đình như sự quan tâm của bố mẹ, truyền thống học tập của gia đình .v.v.

* Yếu tố chủ quan là các yếu tố bên trong quyết định trực tiếp đến kết quả của hoạt động tự học. Trong quá trình tự học, yếu tố nội lực của cá nhân người học là yếu tố cơ bản nhất quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động tự học. Sự trợ giúp của yếu tố ngoại lực chỉ có tác dụng hỗ trợ, kích thích các yếu tố nội lực phát triển. Nội lực của học sinh bao gồm:

- Những yếu tố với tư cách là thành phần cấu trúc của hoạt động tự học đó là nhận thức về tự học, động cơ tự học, thái độ tự học, kỹ năng tự học.

- Yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học với tư cách là tiềm năng tự học của học sinh như yếu tố bẩm sinh, di truyền và một số kỹ năng tự học.

- Yếu tố sức khoẻ cá nhân: Hoạt động tự học là hoạt động căng thẳng, mất nhiều năng lượng thần kinh. Do vậy, đòi hỏi học sinh phải có sức khoẻ tốt thì mới đảm bảo cho hoạt động tự học đạt hiệu quả.

Tóm lại: Có nhiều yếu tố chi phối đến hoạt động tự học, trong đó các yếu tố chủ quan đóng vai trò cốt lõi, các yếu tố khách quan đóng vai trò chi phối. Nắm được các yếu tố chi phối hoạt động tự học sẽ giúp quản lý tốt hoạt động tự học của học sinh. Rèn luyện, bồi dưỡng các kỹ năng tự học cùng với việc xác định mục đích, động cơ tự học, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học là cần thiết; điều quan trọng là học sinh phải có các kỹ năng tự học đó là: đọc sách, ghi chép, hệ thống hoá, khái quát hoá, tự kiểm tra đánh giá .v.v. Để tự học đạt kết quả thì học sinh phải có tri thức, có tư duy khoa học, biến động cơ tự học thành kết quả và tự tin vào bản thân, từ đó bồi dưỡng và phát triển hứng thú học tập, duy trì tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tư duy khoa học trong hoạt động tự học.

1.2.4. Vai trò của tự học đối với sự phát triển nhân cách học sinh

Tự học là cốt lõi của việc học, hễ có học là có tự học, không ai có thể học hộ người khác. Khi nói đến tự học là nói đến nội lực của người học và ngoại lực của người dạy. Trò học, cốt lõi là tự học cách học, cách tư duy; thầy dạy, cốt lõi là dạy cách học, cách tư duy. Tác động dạy của thầy là vô cùng quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực hỗ trợ cho học sinh tự phát triển, còn tự học mới là nhân tố quan trọng, là nội lực quyết định sự phát triển của học sinh.



Triết học Mác - Lê Nin khẳng định tự học trong quá trình giáo dục là yếu tố quan trọng đóng vai trò nguyên nhân bên trong, động lực thực sự của việc học sinh tự giác học tập.

Tâm lý học cũng chỉ ra rằng sự phát triển của con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó giáo dục và hoạt động của cá nhân là quan trọng nhất. Hoạt động của cá nhân là yếu tố đóng vai trò trực tiếp quyết định năng lực và phẩm chất của con người.

Đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của tự học, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Về cách học tập phải lấy tự học làm cốt”. Quá trình tự học như thế có thể hiểu là sự chuyển hoá quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục, là sự biến đổi bản thân trở nên có thêm giá trị bằng nỗ lực của chính mình để chiếm lấy giá trị bên ngoài, là một hành trình nội tại được “cắm mốc” bởi kiến thức, phương pháp tư duy và thực hiện tự phê bình để tự hiểu bản thân mình.

Các lý luận trên không có nghĩa là xem nhẹ vai trò, trách nhiệm của giáo viên trong quá trình dạy học mà giáo viên đóng vai trò chủ đạo, kích thích, động viên, dẫn đường cho học sinh học tập có hiệu quả và đúng cách. Thông qua tự học giúp học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nghề nghiệp trong tương lai; giúp học sinh không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập khi còn học trong trường, đồng thời giúp học sinh rèn luyện nhân cách, hình thành nền nếp làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức kiên trì, óc phê phán và hứng thú học tập; không ngừng làm phong phú, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình, giúp họ tránh được lạc hậu trước sự “bùng nổ thông tin” trong thời đại hiện nay.

Tự học đối với học sinh trường Văn hoá I còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm giúp các em rèn luyện thói quen lao động trí óc, khả năng suy nghĩ, phán đoán độc lập, rèn luyện phẩm chất tự giác, tự giáo dục, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật của ngành Công an, xây dựng thái độ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng tự hoàn thiện bản thân để có thể vận dụng linh hoạt trong thực tiễn chiến đấu sau này.

Từ những phân tích trên có thể thấy tự học đóng vai trò quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, bởi nhân cách người học sinh chính là phẩm chất và năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo tại nhà trường phổ thông.


1.3. Những vấn đề lý luận về quản lý hoạt động tự học của học sinh

1.3.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý và bản chất quản lý

* Khái niệm về quản lý

Quản lý là hoạt động đặc biệt, là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội, gắn liền với quá trình phát triển, đặc biệt trong xã hội phát triển như hiện nay thì quản lý có vai trò rất lớn. Có nhiều cách tiếp cận quản lý khác nhau, ở mỗi cách tiếp cận, có những cách định nghĩa khác nhau:

“Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật, còn kiến thức có tổ chức về quản lý là một khoa học”. [20, tr.33]

“Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng) quản lý về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế .v.v. bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”. [16, tr.7]

Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống: Quản lý là phương thức tác động có chủ định của chủ thể quản lý lên hệ thống bao gồm hệ các quy tắc ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ sớm đạt mục tiêu.

Quản lý được hiểu ở những góc độ khác nhau, song vẫn được thống nhất: là hoạt động có ý thức của chủ thể quản lý nhằm điều khiển tác động lên đối tượng, khách thể quản lý để đạt được mục tiêu quản lý.

* Khái niệm về quản lý giáo dục

Có nhiều nghiên cứu về quản lý giáo dục, hiện nay các ý kiến cơ bản đồng nhất nhau về khái niệm quản lý giáo dục:

“Quản lý khoa học hệ thống giáo dục có thể xác định như là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và định hướng của chủ thể quản lý ở cấp độ khác



nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường, các cơ sở giáo dục khác) nhằm mục đích đảm bảo giáo dục xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của chủ nghĩa xã hội, cũng như quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực, tâm lý trẻ thiếu niên và thanh niên". [23, tr.10]

“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng. Thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến tiến lên trạng thái mới về chất". [33, tr.35]

Từ những khái niệm khác nhau về quản lý giáo dục ta có thể khái quát: quản lý giáo dục là quá trình tác động có định hướng của nhà quản lý giáo dục trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của khoa học nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.

Dựa vào phạm vi quản lý, người ta chia quản lý giáo dục thành hai loại:

- Quản lý hệ thống giáo dục: Quản lý giáo dục được diễn ra ở tầm vĩ mô, trong phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương (tỉnh, thành phố).

- Quản lý nhà trường: Quản lý giáo dục ở tầm vi mô trong một đơn vị, một cơ sở giáo dục.

* Khái niệm quản lý nhà trường

Nhà trường vừa là khách thể chính của mọi cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương, vừa là một hệ thống độc lập trong xã hội. Chất lượng của giáo dục và đào tạo chủ yếu do các nhà trường chịu trách nhiệm. Vì vậy, khi nói đến quản lý giáo dục phải nghĩ đến quản lý nhà trường cũng như hệ thống các nhà trường. Các nhà nghiên cứu về quản lý đã đưa ra một số khái niệm về quản lý nhà trường như sau:

“Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh". [21, tr.61]



“Việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục". [33, tr.71]

Như vậy, quản lý nhà trường là một chuỗi hoạt động quản lý mang tính tổ chức sư phạm của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên và học sinh, đến các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm làm cho quá trình giáo dục và đào tạo vận hành một cách tối ưu tới mục tiêu dự kiến.

Xét về lý luận và thực tiễn thì quản lý nhà trường gồm hai loại:

Tác động của những chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài nhà trường. Đây là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, giáo dục của nhà trường, bao gồm các chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường, hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.

Quản lý nhà trường do chủ thể quản lý bên trong nhà trường bao gồm các hoạt động như: quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học của giáo viên, quản lý hoạt động học tập của học sinh, quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, quản lý tài chính .v.v.

* Bản chất quản lý

Bản chất quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý (chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (khách thể quản lý) nhằm thực hiện mục tiêu chung. Trong giáo dục đó là sự tác động của nhà quản lý giáo dục đến giáo viên, học sinh và các lực lượng khác trong xã hội nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục.

Toàn bộ quá trình quản lý được thực hiện thông qua các chức năng quản lý đó là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, chỉ đạo và kiểm tra đánh giá. Các chức năng quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau và diễn ra có tính chu kỳ trong khoảng thời gian, không gian xác định. Hệ thống thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý, được coi là mạch máu lưu thông giữa các bộ phận đảm bảo cho toàn bộ hệ thống hoạt động, đảm bảo sự thống nhất trong quản lý. Mối liên hệ giữa các chức năng và thông tin trong quản lý được biểu diễn theo sơ đồ 1.


Sơ đồ 1. Các chức năng và thông tin trong quản lý

Lập kế hoạch


Kiểm tra Thông tin Tổ chức


Chỉ đạo


1.3.2. Quản lý hoạt động dạy học

Quản lý quá trình dạy học là quản lý hệ thống bao gồm các nhân tố: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, hoạt động dạy của thầy, hoạt động học của trò .v.v. Các nhân tố cấu trúc này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau nhằm tạo ra chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học. Trong các nhân tố trên, hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò là nhân tố trung tâm của quá trình dạy học bởi các hoạt động khác của nhà trường đều hướng vào hai hoạt động trọng tâm này. Do vậy, trọng tâm của quản lý nhà trường chính là quản lý quá trình dạy học và giáo dục, đó chính là quản lý quá trình lao động sư phạm của người thầy và hoạt động học tập, rèn luyện của người trò diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy học.

Quá trình dạy học là một quá trình thống nhất, theo tác giả Đặng Quốc Bảo: 10 yếu tố hạt nhân hình thành và phát triển quá trình đào tạo thì mối quan hệ giữa dạy và học có tác động qua lại lẫn nhau, thầy dạy là truyền thụ kiến thức (sản phẩm có sẵn) và tổ chức điều khiển các hoạt động nhận thức của học sinh nhằm hình thành cho học sinh năng lực, phương pháp và ý chí học tập. Người học khai phá kiến thức, tự đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nhận thức và nắm chắc kiến thức. Người thầy phải giữ vai trò quyết định trong quá trình nhận thức của học sinh với tư cách là người tổ chức và kiểm tra, chất lượng dạy học sẽ đạt hiệu quả cao khi hoạt động dạy của người thầy và hoạt động học của người trò có sự cộng hưởng lẫn nhau.



Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất và biện chứng của yếu tố ngoại lực bao gồm các hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức của thầy với những yếu tố nội lực bao gồm các hoạt động lĩnh hội, tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò nhằm đạt mục đích cuối cùng và đúng nghĩa của dạy học. Quá trình dạy học tối ưu chính là thực hiện được sự thống nhất biện chứng, trong đó dạy chỉ đạo học, học vừa được chỉ đạo vừa tự chỉ đạo. Chất lượng giáo dục được thể hiện rõ nét nhất ở sự tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập thông qua phương pháp dạy học của giáo viên, biến quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình tự học của học sinh, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.

Như vậy, quản lý quá trình dạy học chính là hệ thống tác động sư phạm có mục đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng khác nhằm huy động, lôi kéo, phối hợp sức lực, trí tuệ của các lực lượng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả của mục tiêu đào tạo.

1.3.3. Quản lý hoạt động tự học

Quản lý hoạt động tự học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng, là bộ phận cấu thành nên hệ thống quản lý quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường. Quản lý hoạt động tự học của học sinh bao gồm hai quá trình cơ bản là quản lý hoạt động tự học trong giờ lên lớp và quản lý hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp, được tiến hành trên cả hai phương diện ở trường và ở nhà. Tuy nhiên đối với trường THPT dân tộc nội trú nói chung và trường Văn hoá I nói riêng thì công tác quản lý hoạt động tự học của học sinh được diễn ra hoàn toàn trong môi trường nhà trường.

Quản lý hoạt động tự học là sự tác động của chủ thể quản lý đến quá trình tự học của học sinh làm cho học sinh tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính mình. Quản lý hoạt động tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với quá trình tổ chức dạy học của giáo viên.

Như vậy, quản lý hoạt động tự học là một hệ thống các tác động sư phạm có mục đích, phương pháp, kế hoạch của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đến toàn bộ quá trình tự học của học sinh nhằm thúc đẩy học sinh tự giác, tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân.

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 04/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí