ngày 14/6/2005; Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012); Luật Hải quan số 54/2014/QH13 ngày 23/6/2014. Các văn bản pháp luật trên được ban hành trên cơ sở kế thừa những ưu điểm của quy định cũ, đồng thời có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn chống thất thu thuế nhập khẩu, cụ thể ta có thể thấy qua những điểm tiến bộ cơ bản sau:
Một là, thống nhất quy định về quản lý thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng: Giai đoạn trước năm 2006, nước ta chưa có một văn bản luật thống nhất về quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế nằm rải rác trong các văn bản pháp luật về từng sắc thuế. Ngoài ra, còn có các văn bản pháp luật khác có những quy định liên quan đến quản lý thuế như: các văn bản pháp luật về kế toán, về hoá đơn chứng từ; các văn bản về khiếu nại, tố cáo; các văn bản về thanh tra, kiểm tra; các văn bản về xử phạt hành chính... Một hệ thống các văn bản pháp luật như vậy sẽ có nhiều quy định mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện. Luật Quản lý thuế năm 2006 đã được xây dựng nhằm khắc phục hạn chế trên.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý thuế nhập khẩu: Cơ chế quản lý thuế nhập khẩu trước đây là quản lý theo chế độ chuyên quản (một cán bộ chuyên quản thực hiện toàn bộ các khâu và trực tiếp thu thuế nhập khẩu từ đối tượng nộp thuế rồi sau đó nộp vào kho bạc) với tính chất chủ yếu dùng quyền lực Nhà nước áp đặt đối với người nộp thuế. Ngược lại, các quy định pháp luật thuế nhập khẩu hiện hành thống nhất áp dụng cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả hơn là tự khai, tự nộp thuế. Cơ chế này có ưu điểm là đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa và tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong việc thực hiện quản lý thuế. Từ thực tiễn thực hiện, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đã xây dựng hành lang pháp lý ngày một hoàn thiện hơn cho cơ chế quản lý tự khai tự nộp thuế.
Ba là, hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra các hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu: Đối tượng của thanh tra, kiểm tra không dàn trải như trước mà chủ yếu tập trung vào những đối tượng có dấu hiệu vi phạm thông qua việc phân tích thông tin về đối tượng đó.
Luật quản lý thuế có sự phân biệt rõ ràng giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế, đồng thời quy định rõ các hành vi nào được xem là hành vi vi phạm pháp luật thuế. Luật quản lý thuế, Luật Hải quan đã quy định đầy đủ, cụ thể đồng thời khá toàn diện, bao quát hết các trường hợp, nội dung của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhập khẩu. Luật Hải quan 2014 quy định rõ việc đẩy mạnh cải cách thủ tục Hải quan, hiện đại hóa quản lý Hải quan, thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục Hải quan từ phương thức truyền thống, bán điện tử sang phương thức điện tử nhằm tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính về Hải quan và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý Hải quan, tăng cường công tác an ninh kinh tế, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế.
Ngoài ra, Luật Hải quan 2014 quy định bổ sung 05 hành vi vi phạm về kiểm tra và giám sát Hải quan: Sử dụng phần mềm khai Hải quan điện tử chưa được cơ quan Hải quan xác nhận tương thích với hệ thống xử lý dữ liệu Hải quan điện tử; không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, đúng thời hạn chứng từ, tài liệu, dữ liệu điện tử liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh khi cơ quan Hải quan yêu cầu theo quy định của pháp luật; sử dụng tài khoản truy cập, chữ ký số được cấp cho tổ chức, cá nhân khác để thực hiện thủ tục Hải quan điện tử; lưu giữ hàng hoá kinh doanh tạm nhập - tái xuất không đúng địa điểm quy định; đưa phương tiện vận tải nước ngoài qua lại biên giới đất liền không đúng tuyến đường, cửa khẩu quy định.
Bốn là, hoàn thiện quy định về xử lí vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu
và tăng mức xử phạt. Cụ thể là: Luật quản lý thuế đã quy định các nguyên tắc cơ bản về xử lí vi phạm pháp luật thuế nhằm định hướng cho việc đổi mới nâng cao hiệu quả của công tác xử lí vi phạm. Luật quản lý thuế cũng như các văn bản hướng dẫn đã quy định đầy đủ, chi tiết và thống nhất về xử lí vi phạm về pháp luật thuế; bao quát được các trường hợp, nội dung của công tác xử lí vi phạm về pháp luật thuế như hành vi vi phạm, thẩm quyền, thời hiệu, việc miễn xử phạt vi phạm, xử lí với từng đối tượng khác nhau,... Quy định nâng mức xử phạt đối với hành vi vi phạm: Ví dụ theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật quản lý thuế năm 2012 quy định nâng mức xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế theo mức luỹ tiến, đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn.
Năm là, hoàn thiện quy định về buộc người nộp thuế bồi thường thiệt hại cho Nhà nước do hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu:
- Thay đổi thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt nhằm tăng cường hiệu quả thu nợ thuế. Theo đó, thứ tự thanh toán được quy định như sau: Tiền thuế nợ; tiền thuế truy thu; tiền chậm nộp; tiền thuế phát sinh; tiền phạt.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Pháp Lý Của Việc Áp Dụng Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Quy Định Về Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Thuế Nhập Khẩu
- Thực Tiễn Thực Hiện Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Đánh Giá Kết Quả Thực Hiện Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay - 9
- Một Số Kiến Nghị Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Áp Dụng Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
- Quy định chặt chẽ hơn về điều kiện xoá nợ tiền thuế, tiền phạt: Đối với các khoản nợ thuế khó có khả năng thu hồi sau khi đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế và các khoản nợ này đã kéo dài trong thời hạn 10 năm.
- Không ngừng hoàn thiện và bổ sung quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế nhập khẩu. Luật quản lý thuế năm 2006 quy định 7 biện pháp cưỡng chế thuế và phải thực hiện tuần tự từng biện pháp. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2012 quy định theo hướng: Bổ sung biện pháp cưỡng chế dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu. Trường hợp người nộp thuế có hành vi bỏ trốn, tẩu tán tài sản thì cơ quan quản lý thuế được lựa chọn áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp để đảm bảo thu hồi nợ thuế kịp thời.
Bên cạnh những Luật trên cũng phải kể đến vai trò quan trọng trong việc chống thất thu thuế nhập khẩu của các văn bản pháp luật hướng dẫn như: Nghị định số 87/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu; Nghị định số 83/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế; Nghị định 08/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về thủ tục Hải quan, kiểm tra, giám sát, kiểm soát Hải quan; Thông tư số 129/2013/TT-BTC quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Thông tư số 156/2013/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 của Chính phủ; Thông tư số 166/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính về thuế; Thông tư số 38/2015/TT-BTC quy định về thủ tục Hải quan; kiểm tra, giám sát Hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Nhìn chung, các quy phạm pháp luật quốc gia đã tạo hành lang pháp lý cho công tác chống thất thu thuế nhập khẩu bằng việc quy định về những vấn đề cơ bản như: đối tượng chịu thuế nhập khẩu; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ thuế nhập khẩu; tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu; trình tự thủ tục thu - nộp thuế thuế nhập khẩu; thanh tra, kiểm tra, giám sát hàng hóa nhập khẩu; vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu và chế tài xử phạt.
Các văn bản pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu mà Việt Nam đã tham gia
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn giao lưu thương mại, hội nhập kinh tế thế giới, hệ thống pháp luật quốc tế trở thành một bộ phận quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hành thu thuế nhập khẩu. Các quy phạm pháp luật quốc tế về quản lý thuế nhập khẩu điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia với
nhau trong việc phân định quyền đánh thuế và quan hệ thu thuế - nộp thuế giữa một quốc gia với tổ chức, cá nhân của quốc gia khác.
Ở Việt Nam, các quy phạm pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu có nguồn chủ yếu từ các điều ước quốc tế, điển hình là: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Chile (VCFTA), Hiệp định về trị giá Hải quan (ACV) và Hiệp định về kiểm định hàng hóa trước khi xếp hàng (PSI)… Nhìn chung, các quy phạm pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu quy định về những vấn đề cơ bản sau:
- Xác định nguyên tắc điều chỉnh việc áp dụng thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu như: nguyên tắc dối xử tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT), nguyên tắc tính thuế theo trị giá Hải quan…
- Xác định danh mục các loại hàng hóa chịu thuế nhập khẩu, hàng hóa thuộc diện cắt giảm thuế hay loại trừ…
- Xác định nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng cho các quan hệ pháp luật thuế nhập khẩu, như: nguyên tắc luật nơi đương sự mang quốc tịch, luật nơi xảy ra sự kiện pháp lý…
Bên cạnh đó, từ đầu những năm 1990 đến nay, Hải quan Việt Nam đã lần lượt ký kết các thoả thuận hợp tác và hỗ trợ nghiệp vụ với Hải quan các nước Pháp, Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, Liên bang Nga và Hải quan các nước trong ASEAN. Đồng thời, tích cực tham gia vào hoạt động của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), hợp tác Hải quan trong APEC, ASEAN. Thông qua các mối quan hệ hợp tác Hải quan song phương và đa phương, Hải quan Việt Nam đã nhanh chóng hoà nhập vào cộng đồng Hải quan quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp về pháp lý và tiếp cận với phương pháp quản lý Hải quan hiện đại, góp phần đưa Hải quan Việt Nam
tiến tới ngang tầm Hải quan các nước tiên tiến. Tính đến năm 2010, Hải quan Việt Nam đã ký kết 42 Điều ước đa phương với các tổ chức Hải quan quốc tế như WCO (10 Điều ước), WTO (12 Điều ước), trong khu vực (16 Điều ước) và các Điều ước đa phương khác (4 Điều ước), cùng các Điều ước song phương liên quan đến hoạt động Hải quan với nhiều nước trên thế giới. Thông qua việc tích cực tham gia vào hoạt động hợp tác Hải quan quốc tế này không chỉ thấy được vai trò quan trọng của Hải quan Việt Nam, mà mặt khác là cơ sở tốt để góp phần đẩy mạnh công cuộc cải cách, hiện đại hóa quản lý thuế nhập khẩu của Hải quan nước nhà [53, tr.21- 23].
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu và buộc bồi thường thiệt hại
Trong 70 năm qua, ở bất kỳ giai đoạn nào ngành Hải quan luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ “người gác cửa biên giới trên mặt trận kinh tế”. Với lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, hành khách, phương tiện vận tải xuất nhập cảnh tăng lên không ngừng, nhưng thủ tục Hải quan luôn cố gắng tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, đảm bảo an toàn, đúng quy định của pháp luật, đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển nền kinh tế đất nước. Trong thời gian qua, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm nghĩa vụ thuế xuất nhập khẩu của ngành đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ, đồng thời cũng còn một số hạn chế cần được khắc phục.
Cụ thể là:
- Trong năm 2010, toàn ngành đã phát hiện, bắt giữ được 12.502 vụ vi phạm, trị giá hàng hoá vi phạm ước tính hơn 418,308 tỷ đồng; đã xử lý 9.696 vụ, số tiền phạt thu về cho ngân sách gần 64 tỷ đồng [43].
Về công tác thanh tra, kiểm tra: Trong năm 2010, toàn ngành đã triển khai 170 cuộc thanh tra, kiểm tra nội bộ theo kế hoạch và đột xuất tại 188 đơn vị; đã tiến hành 44 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành tại 86 đơn vị. Qua
đó, đã phát hiện một số thiếu sót, tồn tại về việc thực hiện các quy định, quy trình nghiệp vụ chuyên môn; doanh nghiệp khai sai mã số thuế, thuế suất, danh mục miễn thuế dẫn đến thừa hoặc thiếu số thuế phải nộp [43].
Về công tác phúc tập hồ sơ và kiểm tra sau thông quan: Trong năm 2010, lực lượng kiểm tra sau thông quan toàn ngành thực hiện nhiều chuyên đề lớn như: phí bản quyền và các khoản phải cộng vào trị giá hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; xe ô tô nhập khẩu khai là xe tải Van; khoảng trống quản lý Hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu qua ICD; chiết khấu giảm giá xe ô tô nhập khẩu... Kết quả mang lại từ những nỗ lực trên là từ 16/12/2009 đến 30/11/2010: công tác kiểm tra sau thông quan đã thực hiện 806 cuộc kiểm tra tại trụ sở Hải quan và 31 cuộc kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp, số phải truy thu là 261,90 tỷ đồng, đã truy thu 240,03 tỷ đồng; đã phúc tập 3.789.723 hồ sơ, đạt tỷ lệ 93,64%, qua công tác phúc tập hồ sơ đã phát hiện truy thu 30,84 tỷ đồng, thực tế đã truy thu 29,63 tỷ đồng [43].
Về công tác thu hồi nợ thuế: Tính đến 30/11/2010, tổng số thu hồi từ các khoản nợ quá hạn cưỡng chế khoảng 1.257,2 tỷ đồng; dự kiến đến 31/12/2010 tổng số thu hồi là 1.442 tỷ đồng, trong đó số thu hồi nợ đọng đối với các khoản nợ khó đòi khoảng 1000 tỷ đồng. Đến hết tháng 10/2010, số nợ thuế chuyên thu toàn ngành Hải quan là 4.330 tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm 2009 [43].
- Trong năm 2011, toàn ngành đã bắt giữ được 19.485 vụ việc vi phạm, trị giá hàng hoá vi phạm ước tính trên 639,580 tỷ đồng (số vụ tăng 39,9%, trị giá tăng 35,8% so với năm 2010). Số đã xử lý, thu nộp ngân sách ước đạt 119 tỷ đồng. Số vụ cơ quan Hải quan ra quyết định khởi tố 07 vụ, chuyển cơ quan khác khởi tố 75 vụ [44].
Về công tác thanh tra, kiểm tra: Đổi mới trong công tác thanh tra, kiểm tra chính rất được quan tâm và chú trọng. Theo đó, việc đổi mới trong xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã có những chuyển biến rõ rệt so với những
năm qua, đó là từ chỗ thanh tra, kiểm tra toàn diện, dàn trải trên diện rộng, sang thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề đạt được hiệu quả cao. Kết quả công tác năm 2011 của thanh tra toàn ngành Hải quan đạt được kết quả đáng kích l ệ trên nhiều lĩnh vực. Tổng số cuộc thanh tra, kiểm tra năm 2011 là 315 cuộc; trong đó Thanh tra Tổng cục thực hiện 36 cuộc, Hải quan địa phương thực hiện 261 cuộc, đơn vị được thanh tra, kiểm tra 433 lượt đơn vị. Kết quả thanh tra theo chuyên ngành: Tổng số cuộc thanh tra 121 cuộc, trong đó các đơn vị trong
ngành tự kiểm tra 103 cuộc (Thanh tra Tổng cục thực hiện 10 cuộc; địa phương thực hiện 93 cuộc). Số đơn vị được thanh tra 135 lượt đơn vị. Thanh tra Tổng cục đã kiến nghị truy thu 199 tỷ đồng, thực thu 91,7 tỷ đồng [44].
Về công tác phúc tập hồ sơ và kiểm tra sau thông quan: Thực hiện chiến lược cải cách, hiện đại hóa ngành Hải quan đến 2020 và kế hoạch cải cách, hiện đại hóa 2011 – 2015, lãnh đạo Tổng cục Hải quan đã lấy năm 2011 là “Năm kiểm tra sau thông quan”. Sau một năm thực hiện, có thể đánh giá “Năm kiểm tra sau thông quan” đã rất thành công, tạo được chuyển biến vượt bậc. Trong năm, toàn lực lượng đã kiểm tra, đánh giá được 2016 doanh nghiệp, bằng 241% so với năm 2010, đạt 110% so với chỉ tiêu đăng ký. Trong đó, số cuộc kiểm tra sau thông quan tại trụ sở doanh nghiệp là 140, bằng 500% so với năm 2010; các cục Hải quan thực hiện tốt gồm: Hà Nội (13 cuộc), Hải Phòng (12 cuộc), Quảng Ninh (12 cuộc), thành phố Hồ Chí Minh (30 cuộc). Tuy nhiên, cũng còn số ít đơn vị chưa thực hiện kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp như Cà Mau, Huế, Bình Phước, Gia Lai, Quảng Ngãi. Số thu từ kiểm tra sau thông quan trong năm tăng mạnh: toàn ngành đã ra quyết định truy thu được 512,5 tỷ đồng, đạt 163% so với chỉ tiêu đăng ký và bằng 176% so với năm 2010. Toàn ngành đã phúc tập 4.024.821 hồ sơ, đạt tỷ lệ 92,98%. Qua công tác phúc tập hồ sơ đã truy thu 47,5 tỷ đồng vào ngân sách. Trong đó, hai đơn vị có số thu lớn là: Quảng Nam (20,5 tỷ đồng) và Hồ Chí Minh (12,8 tỷ đồng) [44].