đúng quy định, làm rõ trách nhiệm của Chi cục, cá nhân xử lý nghiêm khắc và có biện pháp thu hồi nợ cho ngân sách. Tăng cường phối hợp với các ngành, các cấp trong công tác xử lý nợ theo quy định của Luật Quản lý thuế. Nâng cao trách nhiệm trong việc xử lý, thu hồi nợ, gắn trách nhiệm của cán bộ công chức với việc khen thưởng xử phạt. Cùng với đó là sự nỗ lực của những cán bộ làm công tác quản lý nợ tại Hải quan các tỉnh, thành phố trong việc phân tích các khoản nợ và áp dụng linh hoạt các biện pháp thu đòi và xóa nợ thuế [22].
Qua thực trạng trên, ta thấy trong thời gian qua các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu đã được triển khai đồng bộ, tích cực, phát huy hiệu quả tốt và đạt được thành tích đáng kể.
2.1.3.2. Một số hạn chế chủ yếu
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì thực tiễn thực hiện các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu còn gặp phải một số hạn chế đáng kể cần được xem xét khắc phục.
Thứ nhất, hạn chế trong biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thu - nộp thuế nhập khẩu
Công tác thanh tra, kiểm tra còn nhiều chậm trễ, nhất là các vụ vi phạm luật thuế đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng việc điều tra để truy tố, xét xử rất chậm. Trên thực tế, thời gian để tiến hành kiểm tra sau thông quan đối với một doanh nghiệp nào đó là rất lâu, cả tháng thậm chí vài tháng nếu doanh nghiệp có số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu lớn, hồ sơ hải quan nhiều.
Công tác kiểm tra sau thông quan hiện nay thường chỉ tiến hành khi phát hiện đối tượng có dấu hiệu vi phạm, chứ chưa được coi là một chức năng của cơ quan Hải quan nhằm chia sẻ trách nhiệm với các bộ phận liên quan trong quy trình làm thủ tục Hải quan, theo đúng bản chất hoạt động này. Điều này không phù hợp với chuẩn mực quốc tế về quản lý rủi ro. Theo quy định
của Tổ chức Hải quan thế giới, Công ước Kyoto, đặc biệt là theo quy trình kiểm tra sau thông quan của các nước ASEAN. Kiểm tra sau thông quan phải trở thành hoạt động thông thường của cơ quan Hải quan nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, đồng thời phát hiện những sai sót của cơ quan Hải quan trong quá trình làm thủ tục thông quan. Tuy nhiên, trên thực tế, hàng năm lực lượng kiểm tra sau thông quan chỉ chọn lọc một số doanh nghiệp có khả năng vi phạm để tiến hành kiểm tra sau thông quan. Tình trạng này dẫn đến hậu quả rất có khả năng bỏ lọt vi phạm.
Việc lựa chọn đối tượng để kiểm tra cũng chưa thực sự dựa vào các tiêu thức lựa chọn khoa học mà chỉ tập trung vào các đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật và các đối tượng kê khai Hải quan mà bỏ qua các đối tượng gián tiếp tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế như ngân hàng, bảo hiểm, cơ quan giám định hàng hóa...
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Thực Hiện Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Biện Pháp Thanh Tra, Kiểm Tra; Xử Lý Vi Phạm Nghĩa Vụ Thuế Nhập Khẩu Và Buộc Bồi Thường Thiệt Hại
- Đánh Giá Kết Quả Thực Hiện Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Một Số Kiến Nghị Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Áp Dụng Các Biện Pháp Pháp Lý Chống Thất Thu Thuế Nhập Khẩu Ở Việt Nam
- Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Thanh Tra, Kiểm Tra; Xử Lý Vi Phạm Nghĩa Vụ Nộp Thuế Nhập Khẩu
- Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay - 12
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
- Cơ sở dữ liệu thông tin về người nộp thuế còn thiếu thốn, lạc hậu, chưa cập nhật thường xuyên, kịp thời làm ảnh hưởng tới công tác thanh tra, kiểm tra dựa trên kỹ thuật Quản lý rủi ro. Nguyên nhân là do ngành Hải quan chưa xây dựng được lực lượng thu thập thông tin tình báo phục vụ phân loại và xử lý rủi ro. Chính vì thế, việc phân loại doanh nghiệp và phân loại các chuyến hàng chưa có căn cứ xác đáng. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng, thu thập, xử lí và quản lí hệ thống thông tin về người nộp thuế còn chưa được quy định chi tiết và hướng dẫn cụ thể. Pháp luật mới chỉ có một số quy định chung mang tính định hướng, theo khoản 4 Điều 70 Luật quản lí thuế năm 2006 quy định: “Bộ tài chính quy định cụ thể việc xây dựng, thu thập, xử lí và quản lí hệ thống thông tin về người nộp thuế”. Hiện nay, những nội dung này vẫn chưa được Bộ tài chính quy định trong khi đây là vấn đề khá phức tạp liên quan nhiều đến việc xây dựng và triển khai ứng dụng tin học trong các nghiệp
vụ quản lí thuế theo quy trình thủ tục trong ngành thuế và sự phối hợp trao đổi thông tin với các cơ quan, tổ chức có liên quan [10].
- Về điều kiện cơ sở vật chất, khoa học công nghệ phục vụ công tác chống gian lận thuế nhập khẩu còn thiếu: Trang thiết bị, cơ sở vật chất, khoa học công nghệ phục vụ cho hoạt động quản lý Hải quan nói chung, công tác phòng, chống gian lận thương mại nói riêng đã được Nhà nước ta chú trọng đầu tư, nâng cấp, hiện đại hóa hơn so với trước đây. Theo Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 448/QĐ-TTg ngày 25-3-2011) cũng đã xác định rõ mục tiêu:
Xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục Hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin, xử lí dữ liệu tập trung và áp dụng rộng rãi phương thức quản lý rủi ro, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, trang thiết bị, cơ sở vật chất, quá trình hiện đại hóa ngành Hải quan vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, so với nhiều nước trong khu vực và quốc tế còn lạc hậu hơn. Thực tế là nhiều địa phương còn thiếu các địa điểm kiểm tra hàng hóa tập trung, hệ thống máy soi đặc chủng, giám sát hàng hóa, thiết bị giám định... Bên cạnh đó, việc thực hiện các chương trình về công nghệ thông tin vẫn còn bộc lộ những bất cập như: Hệ thống máy tính nối mạng về cơ bản đã có nhưng đường truyền chậm, hay mắc lỗi. Tại một số Chi cục, hệ thống máy chủ đã cũ, hệ thống dữ liệu thông tin quá nhiều nên khi vận hành rất chậm cũng cản trở nhân viên áp dụng kỹ thuật Quản lý rủi ro trong nghiệp vụ của mình. Các chương trình phần mềm của từng nhóm nội dung công tác nghiệp vụ Hải quan chưa tương thích với nhau và khó tích hợp để phục vụ mô hình quản lý mới; hạ tầng mạng chưa ổn định, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, không đảm bảo an ninh mạng. Phần mềm và dữ liệu phục vụ cho quản lý rủi ro còn nhiều hạn chế.
- Thiếu vắng đội ngũ thanh tra, kiểm tra viên có kinh nghiệm, kiến thức chuyên sâu về quản lý thuế, đặc biệt trong công tác thanh tra kiểm tra, cụ thể: thiếu kinh nghiệm, kỹ năng kiểm tra tại doanh nghiệp, kỹ năng hành chính (lập biên bản, xác định hành vi vi phạm; chưa hiểu hết yêu cầu và cách làm về thanh tra thuế với hàng hóa nhập khẩu, khả năng đáp ứng yêu cầu còn thấp, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay). Ở các địa phương số lượng chuyên viên chính, kiểm soát viên chính quá ít nên chưa đủ lực lượng để thường xuyên tổ chức các đoàn thanh tra thuế.
Thứ hai, hạn chế trong biện pháp xử lý vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu Kỹ năng lập biên bản vi phạm hành chính còn một số hạn chế như:
nhiều trường hợp biên bản chưa mô tả đầy đủ hành vi vi phạm, tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ để làm cơ sở cho việc xử phạt; ghi căn cứ hành vi vi phạm pháp luật theo điều, khoản văn bản quy phạm pháp luật chưa chính xác, hoặc lập chưa đúng chủ thể vi phạm; nhiều trường hợp tẩy xoá biên bản nhưng không có chữ ký xác nhận của các bên liên quan. Biên bản lập khi áp dụng biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính còn sơ sài; một số quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm không thể hiện rõ số hàng tạm giữ, phương tiện tạm giữ [60, tr. 93 - 94].
Kỹ năng thực hiện các biện pháp nghiệp vụ khác như: lấy lời khai, làm việc với các đơn vị liên quan, trưng cầu giám định… nhằm xác minh làm rõ hành vi vi phạm để xử lý còn hạn chế, chậm, thiếu sót, chưa chặt chẽ và hiệu quả cao. Do đội ngũ cán bộ công chức có nhiều thành phần trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, trong khi đó quá trình đào tạo chưa sát thực tế, chú trọng nhiều lý thuyết [60, tr. 95].
Xử lý vi phạm hành chính trong nhiều trường hợp còn để kéo dài, tiến độ xử lý, giải quyết chậm. Thực tế tại một số đơn vị cấp Chi cục, Đội Kiểm soát để quá thời hạn ra quyết định xử phạt, không giải quyết dứt điểm vụ việc,
có quyết định xử phạt đã hết hiệu lực thi hành mà không áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật [60, tr. 96].
Hệ thống thông tin theo dõi tình hình vi phạm và công tác xử lý vi phạm hành chính trong toàn ngành chưa đồng bộ, đầy đủ và cập nhật nhanh chóng nên còn nhiều hạn chế, khó khăn trong việc xác định các tình tiết “tái phạm”, tính “hệ thống” của hành vi vi phạm vv… để làm căn cứ xử phạt hoặc phối hợp để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính. Cơ quan quản lý việc xử lý vi phạm hành chính chưa thông tin kịp thời các hành vi, thủ đoạn mới về vi phạm pháp luật hải quan để phát hiện, ngăn chặn những hành vi vi phạm xảy ra [60, tr. 96].
Thứ ba, hạn chế trong biện pháp buộc người nộp thuế bồi thường thiệt hại cho Nhà nước do hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế nhập khẩu
Thực tế việc ấn định thuế gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc về xác định trị giá hàng hoá, cũng như áp mã và thuế suất nhập khẩu. Do đó dẫn tới trường hợp ấn định thuế nhập khẩu chưa đúng quy định pháp luật, độ chính xác không cao, cán bộ hải quan làm công tác ấn định thuế còn lúng túng và chậm trễ. Nguyên nhân của thực trạng này là:
- Hệ thống dữ liệu giá của hàng hóa nhập khẩu còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Thực trạng hiện nay tồn tại nhiều doanh nghiệp nhập khẩu gian lận qua giá bằng cách kê khai giá tính thuế thấp hơn giá mua thực tế, do đó, việc nắm bắt thông tin liên quan đến thương mại quốc tế như giá mua, giá bán các mặt hàng trên thế giới, các mối quan hệ của người mua, người bán từ đó hình thành nên một ngân hàng dữ liệu về giá của hàng hóa nhập khẩu là rất quan trọng để cơ quan Hải quan có thể tham vấn, so sánh, đối chiếu. Căn cứ vào giá tham vấn cơ quan Hải quan có thể phát hiện ra các trường hợp gian lận về giá tính thuế và quyết định ấn định thuế hợp lý tránh thất thu cho ngân sách Nhà nước. Nguồn thông tin chủ yếu được cơ quan Hải quan sử dụng
trong việc kiểm tra là từ giá chào hàng trên internet, giá thị trường, hệ thống thông tin dữ liệu giá trong nội bộ ngành và đặc biệt trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay thì dữ liệu giá được cập nhật thông qua hợp tác Hải quan quốc tế. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống dữ liệu giá của hàng hóa nhập khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; cơ sở dữ liệu về giá còn chưa phong phú, chưa cập nhật kịp thời; thông tin có giá trị sử dụng thấp, độ tin cậy thấp, chưa gắn kết với các tập đoàn, cơ sở định giá quốc tế nên gây trở ngại cho công tác tham vấn giá và ấn định thuế. Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì số lượng, chủng loại hàng hóa nhập khẩu ngày càng đa dạng nên áp lực ngày càng tăng đối với công tác quản lý giá tính thuế nhập khẩu. Do đó, Nhà nước ta cần phải chú trọng hoàn thiện nhanh cơ sở dữ liệu về giá tính thuế [25].
- Xác định trị giá tính thuế ở một số đơn vị Hải quan không tuân theo quy định về sử dụng dữ liệu khi xác định trị giá, xuất hiện tình trạng sử dụng dữ liệu nghi ngờ, dữ liệu quá lâu để xác định trị giá. Hay xác định trị giá theo mức giá trên danh mục quản lý rủi ro hoặc danh mục trọng điểm. Thực hiện như vậy là không tuân theo các phương pháp xác định trị giá và trái với quy định tại khoản 2 điều 6 và điểm d khoản 2 điều 12 Nghị định số 40/2007/NĐ-CP (đa số rơi vào các Chi cục khi xác định trị giá) [61].
Cơ sở dữ liệu về giá trị chỉ được sử dụng như một công cụ đánh giá rủi ro tiềm ro tiềm tàng liên quan đến tính chân thực hoặc tính chính xác của trị giá Hải quan được khai báo đối với hàng nhập khẩu, chứ không được sử dụng để xác định trị giá Hải quan với vai trò là trị giá thay thế cho hàng nhập khẩu hay một cơ chế để xác lập giá tính thuế tối thiểu.
- Biểu thuế không chi tiết được các mặt hàng cùng nhóm, cùng phân nhóm, một mặt hàng có thể xếp vào 1, 2, 3 mã số khác nhau có thuế suất khác nhau. Chỉ tiêu kỹ thuật của một số nhóm mặt hàng trong biểu thuế không rõ
gây nên sự tranh chấp giữa chủ hàng với cơ quan Hải quan. Biểu mô tả hàng hóa về chủng loại, kiểu dáng, chất lượng chủ yếu được mô tả bằng ngôn ngữ viết, thiếu hình ảnh minh họa.
Về thu hồi nợ thuế, qua thực tiễn cho thấy bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại một số hạn chế đáng kể. Qua số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng số nợ thuế xuất nhập khẩu do ngành quản lý năm 2011 là hơn 5.000 tỷ đồng, năm 2012 là hơn 6.200 tỷ đồng, năm 2013 là hơn 5.800 tỷ đồng, năm 2014 là hơn 5.300 tỷ đồng, trong đó nợ không có khả năng thu đòi khá lớn. Thực trạng trên theo tôi là do những nguyên nhân sau:
- Một trong các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc khó khăn trong công tác truy thu thuế trong thời gian qua ở nước ta là do sự thông thoáng của chính sách ân hạn thuế.
Ân hạn thuế là việc người nộp thuế được phép nộp chậm một thời gian. Chính sách ân hạn thuế có ý nghĩa quan trọng nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về vốn, đặc biệt trong hoàn cảnh nước ta đa phần là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp người nộp thuế chủ động, linh hoạt sử dụng nguồn vốn.
Các quy định về ân hạn thuế hiện nay còn khá thông thoáng, lỏng lẻo về điều kiện ân hạn thuế, về kiểm tra, xác minh điều kiện ân hạn thuế và việc thực hiện nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế. Đồng thời, cơ chế thông thoáng trong thành lập doanh nghiệp hiện nay nên nhiều doanh nghiệp không thường xuyên hoạt động nhập khẩu lợi dụng chính sách ân hạn thuế, nhập khẩu hàng hóa sau đó tìm mọi cách để trốn thuế như thay đổi địa chỉ, tự động giải thể, thậm chí thành lập doanh nghiệp “ma” để tiện “biến mất” sau khi đã nhập khẩu hàng hóa. Không chỉ thế, các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức tín dụng bảo lãnh nợ thuế chưa cụ thể, chi tiết, do đó ngay cả có bảo lãnh của tổ chức tín dụng cũng rất khó thu hồi nợ thuế [24].
Trong thực tế đã xảy ra rất nhiều trường hợp lợi dụng chính sách ân hạn thuế gây thất thu thuế cho Nhà nước. Theo thống kê, trong số hơn 20.000 doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thì có khoảng vài trăm doanh nghiệp “ma" sinh ra chỉ nhằm mục đích chiếm dụng vốn Nhà nước, thông qua những ưu đãi về chậm nộp thuế. Tiền nợ thu thuế do các doanh nghiệp lợi dụng chính sách ân hạn thuế thường xuyên vào khoảng 2.000 tỉ đồng. Hai địa bàn thu thuế xuất nhập khẩu lớn nhất cả nước là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng là điển hình về sự phức tạp của việc thu nợ thuế hiện nay. Tính đến cuối năm 2011, số nợ thuế xuất nhập khẩu do Cục Hải quan Hà Nội quản lý lên tới 623,1 tỷ đồng. Tình trạng doanh nghiệp trốn thuế, chiếm dụng ngân sách xảy ra khá phổ biến, song việc xử lý lại rất khó khăn. Trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Bình (phố Huế - Hà Nội) là một ví dụ điển hình. Trên thực tế, doanh nghiệp này đã mở 5 bộ tờ khai nhập khẩu xe gắn máy tại Chi cục Hải quan Bắc Hà Nội, được hưởng ân hạn thuế nhập khẩu (do doanh nghiệp thuộc diện nhập hàng hóa để sản xuất). Hết thời hạn quy định, doanh nghiệp Hiệp Bình không nộp thuế. Hải quan Bắc Hà Nội đã phải phối hợp với cơ quan chức năng phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp để thu đòi nợ thuế song tài khoản của doanh nghiệp trống rỗng. Sau nhiều lần chuyển địa điểm kinh doanh, chủ doanh nghiệp Hiệp Bình đã bỏ trốn, để lại khoản nợ thuế lên đến hơn 5,3 tỷ đồng [24].
- Khâu tổ chức thu hồi nợ đọng thuế nhập khẩu còn thiếu tính đồng bộ. Việc thực hiện luật thuế không chỉ là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nộp thuế, cơ quan quản lý thuế mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Tuy nhiên, pháp luật về quản lý thuế hiện hành mới chỉ quy định chung về nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khác trong việc phối hợp với cơ quan Hải quan nên trách nhiệm pháp lý của họ chưa cao và chưa rõ ràng, cụ thể.
Trên thực tế, sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong công tác thu