tế,...
- Thành lập ban chỉ đạo thu hồi nợ thuế gồm cơ quan thuế, công an kinh
- Tiến hành phạt nộp chậm và yêu cầu các doanh nghiệp cam kết thời hạn
trả nợ hoặc tạm đình chỉ bán hóa đơn cho các đơn vị chây ỳ không nộp thuế.
Tóm lại, có thể khẳng định cơ chế quản lý thuế trong thời gian qua đã thể hiện rõ sự tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế. Cụ thể, thuế đã góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, thu ngân sách ngày càng tăng, phù hợp với sự chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện đúng lộ trình hội nhập quốc tế.
2.3.2. Hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân
Mặc dù đã thu được một số thành tựu đáng tự hào nhưng nếu đánh giá một cách khách quan và toàn diện thì hoạt động chống gian lận thuế TNDN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, bất cập cũng như gặp quá nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Việc phát hiện những hạn chế, bất cập và khó khăn cũng như xác định nguyên nhân chính của những hạn chế, bất cập này là tiền đề quan trọng bậc nhất, quyết định rất lớn đến kết quả hoạt động chống gian lận thuế tại Việt Nam trong thời gian tới.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Chế Quản Lý Thuế Đối Với Các Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Tại Hà Nội Từ Năm 2004 Đến Nay
- Thực Trạng Hoạt Động Quản Lý Thuế Tndn Đối Với Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Trên Địa Bàn Hà Nội
- Tăng Trưởng Số Thu Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp Của Các Doanh Nghiệp Có Vốn Đầu Tư Nước Ngoài Tại Cục Thuế Hà Nội (2003 – 2008)
- Xu Thế Cải Cách Chính Sách Thuế Nói Chung Và Thuế Tndn Nói Riêng Trên Thế Giới
- Nhóm Giải Pháp Về Thực Hiện Cơ Chế Quản Lý Theo Chức Năng
- Hoạt động quản lý thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà nội - thực trạng và giải pháp - 12
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
2.3.2.1. Hạn chế
Về hệ thống chính sách:
Do thường xuyên phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nên việc áp dụng các qui định của pháp luật thuế trong hoạt động quản lý thuế nói chung và hoạt động chống gian lận thuế qua định giá chuyển nhượng nói riêng còn tồn tại rất nhiều kẽ hở:
Trước hết, các văn bản pháp luật thuế đã qui định bắt buộc phải xác định giá mua, giá bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng để xác định thuế phải tuân thủ nguyên tắc thị trường nhưng những quy định này chưa được thực hiện 1 cách triệt để. Mặt khác, các qui định về khấu trừ tại nguồn đối với các khoản thu nhập từ Việt Nam của các cơ sở kinh doanh nước ngoài chưa chặt chẽ và không bao quát được nguồn thu.
Trong Luật Đầu tư cũng như Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, các vấn đề cơ bản của hoạt động xác định giá chuyển nhượng, của nguyên tắc thị trường và các biện pháp, các chế tài xử lý hành vi gian lận trong định giá chuyển
nhượng gần như không được đề cập đến hoặc nếu được đề cập đến thì rất chung, khó áp dụng trong thực tế. Các qui định về đầu tư nước ngoài của Việt Nam cũng không qui định rõ phạm vi và trách nhiệm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc cung cấp tài liệu chứng minh cho các giao dịch với các cơ sở kinh doanh có quan hệ liên kết.
Chính việc chưa qui định hoặc qui định không rõ ràng trong Luật Đầu tư về vấn đề xác định lại thu nhập chịu thuế đã gây rất nhiều khó khăn cho các cơ quan quản lý Nhà nước nói chung, cơ quan thuế nói riêng trong quá trình thực hiện kiểm soát kết quả hoạt động sảng xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, các thủ tục quy định về quản lý và chuyển giao công nghệ, cũng như ưu đãi thuế đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, áp dụng kĩ thuật mới còn phức tạp, và phần nào chưa rõ ràng đã và đang là vấn đề để cho các cơ sở kinh doanh lợi dụng điều kiện định giá chuyển nhượng công nghệ. Ví dụ như:
- Qui định giá hàng hoá nhập khẩu thuộc diện chịu thuế nhập khẩu được xác định theo hoá đơn thương mại. Qui định doanh nghiệp được toàn quyền xác định giá bán của sản phẩm.
- Qui định giá trị công nghệ chuyển giao do các bên liên quan thoả thuận.
Rõ ràng với những qui định "mở" như vậy sẽ khuyến khích các công ty đa quốc gia tăng cường hoạt động định giá chuyển nhượng để giảm thiểu nghĩa vụ thuế, chuyển bớt lợi nhuận ra nước ngoài mà các cơ quan quản lý Nhà nước khó có thể can thiệp.
Thứ ba, những ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN như: miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định, miễn thuế nhập khẩu của nguyên liệu sản xuất của các dự án đầu tư vào địa bàn hoặc lĩnh vực khuyến khích,… là những kẽ hở mà các công ty đa quốc gia rất hay lợi dụng để khai tăng giá trị hàng hoá nhập khẩu, làm tăng chi phí giảm thu nhập tính thuế TNDN mà vẫn không phải nộp thêm thuế nhập khẩu.
Về công tác quản lý thuế:
Khả năng thu thập và xử lí thông tin còn thiếu và yếu không đáp ứng yêu cầu chống gian lận thuế. Để chống gian lận thuế thành công, một điều kiện không thể thiếu là phải có cơ sở dữ liệu được cập nhật thường xuyên, đầy đủ, toàn diện về
đối tượng nộp thuế, về các cơ sở kinh doanh có mối quan hệ liên kết của đối tượng nộp thuế, về tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới.
Tuy nhiên hiện nay do chưa có một bộ phận chuyên thu thập, xử lí thông tin cũng như chưa có một cơ chế thu thập thông tin nên việc phân tích, đánh giá và xử lí hành vi gian lận thuế, xác định lại doanh thu và chi phí thực tế hay chính là xác định một cách chính xác thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp là rất khó khăn.
Mặt khác, ngay cả khi đã thu thập được đủ thông tin kinh tế tài chính để tiến hành phân tích thì cũng chưa có những phần mềm hỗ trợ phân tích hiệu quả khiến việc phân tích mất nhiều thời gian, độ chính xác không cao,…
Vì thế, có thể khẳng định: một trong những việc cần làm ngay để công tác chống gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt hiệu quả cao chính là xây dựng được một cơ sở dữ liệu tốt và có những phần mềm hỗ trợ hiệu quả việc xử lý, phân tích cơ sở dữ liệu đó.
Công tác quản lý và điều hành thu nộp cũng còn rất nhiều bất cập. Tình trạng chậm trễ, thủ tục rườm rà vẫn luôn là hạn chế lớn đối với bộ máy ngành thuế. Thời gian để doanh nghiệp thực hiện kê khai và nộp thuế thường rất lâu. Mặc dù đã có những cải tiến trong thời gian qua nhưng đây vẫn là khâu yếu nhất trong quá trình thu thuế của các cơ quan thuế.
Nhiều tiêu chuẩn như các tiêu chuẩn về đối tượng ngừng kê khai, các tiêu chuẩn về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế, lĩnh vực thanh tra, xử lý tờ khai thuế,... chưa được xây dựng hoặc chưa được hoàn thiện.
Quản lý thu thuế ở nước nào cũng gặp khó khăn bởi các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh cố ý tìm mọi thủ đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp; không những không nộp thuế mà còn tìm cách chiếm đoạt tiền từ NSNN thông qua việc kê khai khống giá mua hàng, lập hồ sơ khống để hoàn thuế GTGT,... Tình trạng trốn, lậu thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản thu và diễn ra ở các lĩnh vực, vùng, miền khác nhau, vừa làm thất thu cho ngân sách nhà nước, vừa không bảo đảm công bằng xã hội. Do đó, tùy theo từng nước và từng thời gian nhất định, việc áp dụng cơ chế thuế hợp lý với những tiêu chuẩn được ưu tiên để đạt được mục tiêu đề ra trong việc hoạch định chiến lược, chương trình là cần thiết.
Đối với Việt Nam, cho đến nay ngành thuế đã xây dựng được một số tiêu chuẩn nhất định (như các tiêu chuẩn về chỉ tiêu số thu, thời gian đăng ký mã số thuế, thời gian xử lý tờ khai, phát hành thông báo thuế, thời gian hoàn thuế,... ). Tuy nhiên, còn nhiều tiêu chuẩn khác chưa được xây dựng hoặc chưa được hoàn thiện (như các tiêu chuẩn về đối tượng ngừng kê khai, các tiêu chuẩn về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế, lĩnh vực thanh tra, xử lý tờ khai thuế,...).
Công tác thanh - kiểm tra chống gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là kém hiệu quả. Hiện nay, ngành thuế vẫn chưa xây dựng được một qui trình thanh tra tiên tiến nói chung và qui trình thanh tra chống gian lận thuế hiệu quả nói riêng. Do đó, công tác kiểm tra, thanh tra thuế thu nhập doanh nghiệp còn rất thủ công nên thường bị kéo dài và hiệu quả thấp.
Mặt khác, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trình độ và nghiệp vụ của các cán bộ ngành thuế ở các cơ quan thuế địa phương còn nhiều hạn chế, cũng chưa chủ động tiến hành hoạt động thanh tra chống gian lận thuế. Chính điều này đã góp phần khiến hành vi gian lận thuế thu nhập doanh nghiêp của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam nói chung và Cục thuế Hà Nội nói riêng ngày càng phổ biến và nghiêm trọng.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Việc xây dựng và ban hành Luật thuế, Luật đầu tư còn thiếu tính đồng bộ và ổn định lâu dài:
Có thể dễ dàng nhận thấy, văn bản quy phạm pháp luật về thuế ở Việt Nam thiếu tính ổn định lâu dài, thường xuyên phải thay đổi bổ sung. Điều này không chỉ tạo nên sự chồng chéo mà còn khiến cho cán bộ ngành thuế gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý thuế TNDN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong một số trường hợp, trong thời gian giao thoa tiến tới thực hiện theo văn bản mới, các doanh nghiệp còn lợi dụng những kẽ hở này để thực hiện những hành vi gian lận thuế.
Tình trạng này xảy ra còn do các cơ quan thi hành luật chưa có cái nhìn bao quát, dù đã quan tâm tới tính trễ về thới gian của các văn bản luật nhưng thờì gian áp dụng của các văn bản này thường không dài. Chỉ một thời gian ngắn sau khi ban hành đã bộc lộ những lạc hậu so với điều kiện mới.
Một thực tế nữa là việc thi hành luật ở Việt Nam còn phải chờ đợi Nghị định và Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ban, ngành cho nên dù trên giấy tờ thời gian thi hành Luật đã có hiệu lực nhưng khi chưa có hướng dẫn thì những quy định mới này cũng chưa thế được thực hiện.
Tất cả những điều này đang gây ra một cản trở rất lớn đến công tác quản lý thuế nói chung và thuế TNDN đối với doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói riêng. Nó gây ra tâm lý bất an đối với các doanh nghiệp làm ăn hợp pháp nhưng lại là kẽ hở lớn để những doanh nghiệp làm ăn thiếu minh bạch lợi dụng để thực hiện hành vi gian lận, trốn thuế.
Công tác tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế chưa linh hoạt, hiệu quả:
Có thể dễ dàng nhận thấy, các hình thức tuyên truyền chính sách thuế hiện nay rất đơn điệu, cứng nhắc và không có tính thu hút. Việc tổ chức công tác tuyên truyền về thuế chưa chủ động, không thường xuyên, liên tục cũng như chưa thật sự thống nhất, đồng bộ, chưa đi vào chiều sâu để xã hội nhận thức rõ tác động tiêu cực của hành vi gian lận thuế. Do đó, chưa gây được sức ép của công luận đối với các cơ sở kinh doanh đang thực hiện hành vi gian lận thuế…
Ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp còn thấp:
Nhìn chung các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội và các cơ quan thông tấn, báo chí chưa hiểu rõ bản chất của thuế, chưa nắm được nội dung cơ bản của chính sách thuế. Do đó, nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội và các cơ quan thông tấn, báo chí chưa lên án kịp thời, mạnh mẽ các hành vi gian lận thuế và chưa hỗ trợ tích cực với cơ quan thuế để chống gian lận thuế,… Không những thế, một số tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thuế - tài chính còn gợi ý cho các cơ sở kinh doanh thực hiện những biện pháp để khai giảm doanh thu, tăng chi phí để giảm thuế phải nộp để giúp các công ty đa quốc gia trốn thuế.
Về phía đối tượng nộp thuế, do chưa nắm bắt được quyền lợi, nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các qui định của pháp luật thuế nên ý thức tự giác chấp hành các qui định về thuế, về xác định giá đối với các giao dịch liên kết chưa cao.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ thuế làm công tác chống gian lận thuế còn hạn chế:
Nếu so với yêu cầu của công tác chống gian lận thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới ngày càng mở rộng và phức tạp thì đội ngũ cán bộ thuế hiện nay không thể đáp ứng. Đội ngũ cán bộ thuế làm công tác chống gian lận thuế còn thiếu kiến thức chuyên sâu, không chuyên nghiệp và thiếu kĩ năng quản lý thuế hiện đại. Khả năng phân tích, đánh giá và kĩ năng sử dụng máy tính để tính toán và xử lý các vấn đề phát sinh còn kém.
Đồng thời, do hiện nay ngành thuế chưa có những chuyên gia kinh tế, kĩ thuật giỏi, hiểu biết sâu rộng về các ngành kinh tế, về kế toán quốc tế nên khi thực hiện việc phân tích hoạt động và tình hình tài chính của các cơ sở kinh doanh để phát hiện hành vi chuyển lợi nhuận để gian lận thuế rất hạn chế, làm cho công tác chống gian lận thuế tiến hành không triệt để, hiệu quả thấp.
Mặt khác, một bộ phận cán bộ thuế chưa có ý thức trách nhiệm trong công tác, thiếu rèn luyện và tu dưỡng về đạo đức, tiếp tay cho những hành vi gian lận.
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CÓ VỐN
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.1. XU THẾ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH THUẾ NÓI CHUNG VÀ QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP NÓI RIÊNG TRÊN THẾ GIỚI
Nếu như việc đánh thuế là một điều tất yếu để duy trì sự tồn tại của Nhà nước thì hệ thống chính sách quản lý thuế, trong khi đó, lại liên tục biến đổi do những điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị và quản lý ở từng thời điểm. Điều này đặt ra một câu hỏi là: Liệu có một xu thế chung trong những nỗ lực cải cách thuế ở các quốc gia trên bình diện khu vực và quốc tế hay không? Nếu có thì những nhân tố nào đang ảnh hưởng tới xu thế chung đó? Và các quốc gia có thể đạt được những hiểu biết, kinh nghiệm gì từ quá trình biến đổi đó?
Phần I của Chương III sẽ mang tới cái nhìn tổng quát về những nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới nỗ lực cải cách chính sách thuế trên thế giới, chỉ ra xu thế cải cách chính sách thuế nói chung và Thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia.
3.1.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới xu thế cải cách chính sách thuế trên thế giới
Sự toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế:
Tính lưu chuyển ngày càng tăng của tiết kiệm, đầu tư, các nhân tố của quá trình sản xuất, hàng hóa và dịch vụ qua biên giới là dấu hiệu được nhận biết thường xuyên nhất của quá trình toàn cầu hóa. Chính điều này có ảnh hưởng sâu rộng tới việc thiết lập chính sách thuế và làm gia tăng những vấn đề phức tạp mang tính kỹ thuật (ví dụ như sự phân định quyền đánh thuế, đánh thuế thương mại điện tử,…) và những vấn đề nhạy cảm trong việc phối hợp chính sách thuế giữa các quốc gia.
Sự toàn cầu hóa nêu bật sự cần thiết của chính sách thuế linh hoạt và sự liên kết quốc tế sâu rộng hơn để phù hợp với thực tiễn thế giới. Với tốc độ phát triển kinh tế quốc tế vũ bão như ngày nay, các quốc gia buộc phải thích ứng nếu không muốn bị tụt hậu. Một ví dụ quan trọng cho xu hướng này là việc các chính sách
khuyến khích về thuế được áp dụng ngày càng nhiều nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài; đồng thời, bên cạnh đó là những nỗ lực quốc tế trong việc thiết lập những quy tắc chung.
Một tác động khác nữa của toàn cầu hóa là vai trò trung gian ngày càng lớn của các trung tâm tài chính quốc tế nhằm bảo vệ các nhà đầu tư khỏi quyền hạn của các hệ thống thuế nơi họ cư trú.
Vấn đề tạo công ăn việc làm:
Vấn đề tạo việc làm và yêu cầu phải dỡ bỏ những rào cản về thuế đối với lao động được đề cập rất nhiều trong các chương trình nghị sự tại nhiều quốc gia, không chỉ ở Liên minh Châu Âu và khu vực các quốc gia OECD, mà còn ở hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi. Xu hướng này có thể thấy rõ với việc thị trường lao động ở nhiều nước đang phải chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng từ những nền kinh tế có giá nhân công thấp và sức ép phải thay đổi cơ cấu để thích nghi.
Các tổ chức, liên minh được thành lập nhằm củng cố sự hợp tác chính sách kinh tế khu vực:
Các tổ chức, liên minh khu vực và quốc tế này góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng. Sự phản ánh rõ ràng nhất của xu hướng này là việc vô số các liên minh thuế quan được thành lập trong suốt hơn hai thập kỷ qua, với một loạt các phiên bản từ hệ thống được chuẩn hóa cao của EU cho tới các liên minh thuế quan giản đơn mà không có bất kỳ cơ cấu phân chia số thu thuế nào. Một trong những sáng kiến thành lập gần đây nhất là Liên minh thuế quan Trung Mỹ (CACU), dù cho đây là một việc làm đi ngược lại những nền tảng của Vòng đàm phán Doha, đang có nguy cơ thất bại trong nỗ lực hài hòa các chính sách thuế giữa các nước.
Tư tưởng “bầy đàn”:
Đôi khi ở những thời điểm khác nhau, vì một số lí do, ý tưởng cải cách chính sách thuế trở nên thịnh hành trong giới kinh tế học và giới chính trị gia. Đây có thể là một nhân tố tiềm tàng, dù cho rất khó để đánh giá được tầm quan trọng của nó trong thực tiễn. Tư tưởng này, phần nào đó, được hình thành do những tác nhân kinh tế - chính trị, với việc các chính phủ “hồ hởi” thể hiện tính quyết đoán của mình bằng việc sử dụng những mô hình cải cách đã thành công ở một nơi nào khác. Ví dụ như việc ra đời các loại thuế môi trường vào những năm 1990.