chương, mục, những quy định nào trái với luật quốc gia thì có quyền bảo lưu không áp dụng).
Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế là những quy phạm luật thực chất đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy, dựa vào điều ước quốc tế, các bên tham gia dù ở các quốc gia khác nhau, vẫn có thể có một sự hiểu thống nhất trong việc giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh, tiết kiệm thời gian. Song hiện nay, ngoài Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước Brusell (1924) điều chỉnh vận đơn đường biển, Luật thống nhất về hối phiếu ULB năm 1930, Việt Nam chưa tham gia ký nhiều điều ước quốc tế về mua bán và thanh toán với các nước, đặc biệt là các nước phát triển nên điều ước quốc tế với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh chưa thực sự phát huy được vai trò của nó.
b) Tập quán thương mại quốc tế.
Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen thương mại được công nhận rộng rãi đến mức trở thành một quy tắc pháp lý mà mọi người phải tuân theo nếu không có quy định gì khác.
Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và trở thành tập quán thương mại khi thoả mãn 3 yêu cầu sau:
- Là một thói quen phổ biến, được nhiều nước áp dụng và áp dụng thường xuyên.
- Về từng vấn đề và ở từng địa phương, đó là thói quen độc nhất.
- Là một thói quen có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa vào đó để xác định quyền và nghĩa vụ đối với nhau.
Thông thường, các tập quán thương mại quốc tế được chia thành 3 nhóm: các tập quán có tính chất nguyên tắc, các tập quán thương mại khu vực và các tập quán thương mại quốc tế chung.
Tập quán có tính chất nguyên tắc là những tập quán cơ bản, bao trùm
Có thể bạn quan tâm!
- Các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 2
- Định Nghĩa Dịch Vụ Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
- Quy Trình Thực Hiện Dịch Vụ Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
- Nội Dung Điều Chỉnh Của Pháp Luật Về Thanh Toán Bằng Thư Tín Dụng
- Tổng Quan Về Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Tổ Chức Hoạt Động Thanh Toán Quốc Tế Tại Agribank
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
được hình thành trên cơ sở của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng giữa các dân tộc. Ví dụ tòa án hoặc trọng tài của nước nào thì có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi giải quyết các tranh chấp.
Các tập quán thương mại khu vực (địa phương) là các tập quán thương mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng.
Tập quán thương mại quốc tế chung là các tập quán thương mại được nhiều nước nước công nhận và áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Ví dụ như các quy tắc về thực hành thống nhất tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại quốc tế soạn thảo được rất nhiều nước trên thế giới thừa nhận và áp dụng.
Tập quán quốc tế về thương mại sẽ được áp dụng cho các phương thức thanh toán, các hợp đồng mua bán ngoại thương trong các trường hợp:
- Khi chính hợp đồng hay phương thức thanh toán quy định.
- Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định.
- Khi luật thực chất (luật quốc gia) do các bên thoả thuận lựa chọn, không có hoặc có nhưng không đầy đủ, còn khiếm khuyết về vấn đề tranh chấp, về vấn đề cần được điều chỉnh (Điều 759, Bộ Luật dân sự Việt Nam 2005)
Trong 3 trường hợp trên, tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng để điều chỉnh. Song cần chú ý là, vì tập quán quốc tế thường có nhiều loại và được sửa đổi bổ sung thường xuyên nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó. Ví dụ áp dụng UCP thì phải chỉ rõ ra là bản UCP nào, UCP 400 hay UCP 500, hay UCP 600.
Khi áp dụng tập quán thương mại quốc tế, các bên cần chứng minh nội dung của các tập quán đó. Bởi vậy, sẽ là thuận lợi nếu các bên có được thông tin đầy đủ về tập quán thương mại trước khi bước vào đàm phán ký kết hợp đồng.
Ngoài 3 nguồn luật nói trên, thực tiễn thanh toán của các nước phương Tây còn thừa nhận cả án lệ (tiền lệ xét xử) và các bản điều kiện chung.
Hiện nay, trong TTQT, một số tập quán thương mại được các ngân hàng thương mại sử dụng rộng rãi nhất, đó là: Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (TDCT) theo UC P600, Quy tắc thực hành thống nhất về nhờ thu theo URR 522, Quy tắc hoàn trả liên ngân hàng theo URR525. Đồng thời, trong thanh toán chuyển tiền, giao dịch trao đổi thông tin giữa các Ngân hàng cũng đang được hầu hết các NH sử dụng hệ thống thanh toán viễn thông liên NH quốc tế SWIFT nhằm tránh hiểu lầm do bất đồng ngôn ngữ, gây chậm trễ cũng như mất an toàn trong thanh toán.
Ngoài UCP, các văn bản sau đây cũng có giá trị hiệu lực điều chỉnh các hoạt động thanh toán qua thư tín dụng:
- URR.525.1995 ICC: Quy tắc thống nhất hoàn trả tiền theo thư tín dụng.
- ISP98: Quy tắc quốc tế về tín dụng dự phòng năm 1998.
- eUCP 1.1: Bản phụ trương UCP 600 về việc xuất trình chứng từ điện tử - bản diễn giải số 1.1 năm 2007.
- ISBP681.2007 ICC: Thanh toán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng – số 681 của ICC tuân thủ UCP 600 năm 2007.
1.2.2.2. Nguồn pháp luật quốc gia
TTQT nói chung và thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng gắn bó mật thiết với các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như mua bán hàng hóa, vận tải, bảo hiểm do đó ngoài việc phải vận dụng các điều ước, thông lệ quốc tế thì việc phải vận dụng đến nhiều luật lệ, tập quán đặc thù ở hai hay nhiều nước khác nhau khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến phương thức thanh toán là khó tránh khỏi.
Khi không có điều ước quốc tế hoặc có nhưng không đề cập hoặc đề cập không đầy đủ những vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, hoặc khi tập quán thương mại quốc tế mà các bên thoả thuận áp dụng không quy định hoặc quy định không đầy đủ về vấn đề liên quan đến tranh chấp phát
sinh thì các bên tham gia có thể dựa vào luật pháp của một quốc gia để giải quyết. Trong trường hợp này, luật quốc gia trở thành nguồn luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên, bổ sung cho những thiếu sót của hợp đồng mua bán, của điều ước quốc tế và những tập quán thương mại quốc tế mà các bên lựa chọn áp dụng.
Luật quốc gia của một nước sẽ được áp dụng cho các bên khi:
+ Các bên thoả thuận ngay trong hợp đồng. Điều này có nghĩa là ngay từ lúc đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận, đưa vấn đề này vào thành một điều khoản và gọi là điều khoản về luật áp dụng. Điều khoản này có thể được quy định như sau: “Mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam”.
+ Các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng sau khi ký kết hợp đồng. Lúc này thường là tranh chấp đã xảy ra nhưng các bên vẫn có thể đàm phán với nhau để thoả thuận chọn luật áp dụng. Tất nhiên, trong trường hợp này các bên rất khó có được sự nhất trí trong việc chọn luật của nước nào trong số luật của hai nước liên quan, song nếu hai bên thoả thuận chọn luật của nước thứ ba hoặc dẫn chiếu tới một điều ước quốc tế thì vấn đề cũng có thể được tháo gỡ.
+ Khi luật đó được quy định trong các điều ước quốc tế có liên quan. Điều này có nghĩa là nếu trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đã tham gia ký kết hoặc thừa nhận có quy định điều khoản về luật áp dụng thì luật đó đương nhiên được áp dụng, các chủ thể không cần phải mất thời gian đàm phán về vấn đề đó nữa.
Luật quốc gia được các bên lựa chọn có thể là luật nước người bán, luật nước người mua, luật của nước thứ ba hoặc của bất kỳ nước nào khác có mối liên quan chẳng hạn như luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện nghĩa vụ.
Việc chọn luật của nước nào hoàn toàn do các bên tự thoả thuận và
quyết định. Trong thực tế, việc lựa chọn luật nước nào trước hết phụ thuộc vào sự đàm phán, vào thế mạnh của bên đàm phán và đặc biệt là vào sự hiểu biết của mỗi bên về luật của nước mà mình và bạn hàng đang sắp lựa chọn. Thông thường, bên nào cũng muốn sử dụng luật của nước mình làm luật điều chỉnh. Nếu trong trường hợp cả hai bên đều không nhân nhượng nhau thì có thể đề nghị áp dụng luật của một nước thứ ba.
Trước khi đồng ý chọn luật của nước thứ ba cần phải tương đối am hiểu luật của nước thứ ba đó. Chẳng hạn, ít nhất cũng phải biết là luật nước đó bảo vệ quyền lợi cho người bán hay người mua, luật nước đó có liên quan tới hợp đồng đã ký kết hay không hoặc có trái với chế độ chính trị hay vi phạm quyền lợi của mình hay không.
Khi nói luật quốc gia là nguồn luật điều chỉnh không có nghĩa là toàn bộ hệ thống luật quốc gia của nước đó đều được đem áp dụng mà chỉ áp dụng những ngành luật, những văn bản pháp luật có liên quan. Trong hệ thống luật quốc gia, ngành luật có liên quan tới mua bán và TTQT là Luật dân sự, Luật thương mại ...
Tuỳ theo mối quan hệ của các bên liên quan trong hoạt động TTQT nói chung và thanh toán bằng L/C nói riêng mà quyết định sẽ lựa chọn những luật nào để giải quyết các tranh chấp có liên quan.
Trong TTQT và thanh toán bằng L/C nói riêng ở Việt Nam, mối quan hệ giữa các chủ thể là những cá nhân, pháp nhân của các nước khác nhau hoặc mang quốc tịch khác nhau thì sẽ được điều chỉnh bởi các luật quốc gia sau:
- Bộ Luật Dân sự năm 2005.
- Luật thương mại năm 2005
Còn đối với mối quan hệ giữa các chủ thể là những cá nhân, pháp nhân ở cùng một nước, cùng mang một quốc tịch, khách thể cũng mang tính chất
đối nội thì chịu sự điều chỉnh của các luật sau:
- Bộ Luật Dân sự năm 2005.
- Luật thương mại năm 2005.
- Luật Doanh nghiệp 2005.
- Luật ngân hàng 2010
- Luật Tổ chức tín dụng 2010
- Luật các công cụ chuyển nhượng.
- Pháp lệnh ngoại hối 2005.
Hiện nay trên thế giới, có khoảng trên 80 quốc gia chưa có luật riêng về TTQT như Tây Ban Nha, Đài Loan, ấn Độ, Pháp, Đan Mạch, Inđônêxia, Bỉ, Trung Quốc, Nhật, Hà Lan, Phillippines...
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nước đã xây dựng được cho mình một hệ thống luật để điều chỉnh về các phương thức và phương tiện TTQT như các quy tắc về thư tín dụng, về hối phiếu, về nhờ thu. Các quy tắc này thường nằm trong các chương, mục, điều khoản của bộ luật có liên quan như Luật thương mại, Luật dân sự tùy theo từng nước. Các nước có thể kể đến là Mỹ, Anh, áo, Canada, Colombia, Séc, Đức, Hy lạp, Malaysia, Singapore, Thuỵ Sỹ, Nga ...
ở Mỹ, các quy tắc về thư tín dụng được quy định chủ yếu trong Điều 5 của Luật thương mại thống nhất Mỹ (UCC), điều khoản này quy định khá rộng về các vấn đề thuộc về thực tiễn và mang tính kỹ thuật, bất cứ vấn đề nào mà chưa được đề cập đến trong điều khoản này thì sẽ được xem xét bằng những điều khoản của các luật có liên quan. Không giống như UCP500, Điều 5 Khoản 116 của UCC không hạn chế việc chuyển nhượng L/C chỉ được một lần duy nhất. Cho dù là loại L/C là cho phép chuyển nhượng hay không thì việc chuyển nhượng số tiền L/C vẫn hoàn toàn được phép. Ngay cả khi các bên thoả thuận lựa chọn UCP để điều chỉnh thì các quy tắc của Điều 5 UCC
cũng vẫn là một nguồn luật mà các bên trong thư tín dụng phải tuân theo nếu như vấn đề tranh chấp chưa được UCP đề cập tới.
Ở Cộng Hòa Séc, luật về thư tín dụng được điều chỉnh bởi các điều khoản từ 682 đến 691 của Luật thương mại cộng hòa Séc. Các vấn đề được quy định ở đây không bao quát nhiều khía cạnh như UCP500 nhưng nhìn chung là đều theo tinh thần của UCP500.
Luật Quan hệ thương mại quốc tế của nước Cộng hòa dân chủ Đức trước đây có các điều khoản từ 256 đến 258 điều chỉnh về thư tín dụng. Theo các quy tắc của Luật này thì thư tín dụng là có thể hủy ngang nếu như không được quy định rõ ràng là không thể hủy ngang. Tuy nhiên, Luật quan hệ thương mại quốc tế này đã bị hủy bỏ trong quá trình đồng bộ hóa luật pháp sau khi nước Đức thống nhất.
Các quy tắc về thư tín dụng của Hy lạp là những quy tắc luật pháp về thư tín dụng duy nhất ở Liên minh Châu âu. Kể từ khi hầu hết các ngân hàng Hy Lạp đều áp dụng UCP thì các quy tắc luật pháp này trở nên ít có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, Hy lạp vẫn có dự định sửa đổi Luật về thư tín dụng. Các quy tắc về thư tín dụng của Hy lạp nằm trong Quy định ngày 17-7/13-8 năm 1923 về “Các quy tắc đặc biệt đối với các công ty cổ phần”. Các điều khoản từ 25- 34 của Quy định này điều chỉnh về thư tín dụng. Các điều khoản này không đưa ra các quy định cụ thể về mối quan hệ giữa người hưởng lợi và ngân hàng phát hành. Kể cả sự tham gia của các ngân hàng đại lý cũng không có ảnh hưởng cụ thể nào đối với mối quan hệ này. Tuy nhiên, Luật về thư tín dụng của Hy lạp lại nhấn mạnh vị trí của ngân hàng phát hành đối người yêu cầu mở thư tín dụng. Điều khoản 31 quy định về quyền toàn phần của ngân hàng đối với hàng hóa. Điều 29 quy định về việc đảm bảo lợi ích của ngân hàng bằng chứng khoán được chuyển nhượng hoặc tiền mặt.
Ngoài các văn bản luật quy định chung về một số vấn đề liên quan đến
thanh toán quốc tế bằng L/C, các văn bản dưới luật cũng quy định cụ thể về vấn đề như: Quyết định số 711/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 25/5/2001 về việc ban hành Quy chế nhập hàng trả chậm; Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 26/3/2002 về việc ban hành Quy chế thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Quyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 8/10/2002 về việc ban hành Thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.2.2.3. Mối tương quan về hiệu lực giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong thanh toán bằng thư tín dụng
* Hiệu lực của pháp luật quốc gia và tập quán thương mại điều ước quốc tế về thanh toán bằng thư tín dụng;
- Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
Trong Bộ Luật Dân sự có 01 phần (phần thứ bẩy) gồm 20 điều từ Điều 758 đến Điều 777 quy định về các giao dịch dân dự có yếu tố nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 758: Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Như vậy quan hệ trong hoạt động TTQT nói chung và Thanh toán bằng thư tín dụng nói riêng là một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Điều 759 Áp dụng pháp luật dân sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế:
Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế: Các quy định của pháp luật dân sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được áp dụng