Cơ Sở Pháp Lý Của Trách Nhiệm Bồi Thường Thiệt Hại Do Làm Ô Nhiễm Môi Trường

chống ô nhiễm. PPP mở rộng năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ra ô nhiễm ngoài việc phải tuân thủ các chi phí khắc phục ô nhiễm còn phải bồi thường cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra [43]. Tương tự cộng đồng Châu Âu, các nước trên thế giới đều theo nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả". Hơn nữa, xét cả từ phương diện lý luận và thực tế, quan điểm chung của các nước là không phân chia trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sự cố môi trường gây nên. Lý do chính của việc không phân chia này là vì phần lớn các nước coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là trách nhiệm dân sự tuyệt đối, theo đó loại trách nhiệm này chủ yếu căn cứ vào dấu hiệu có thiệt hại thực tế về môi trường và thiệt hại do con người gây ra mà không phụ thuộc vào yếu tố lỗi của người gây thiệt hại. Nói khác đi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường được áp dụng trong mọi trường hợp mà người gây thiệt hại không thể viện bất cứ cớ gì để tránh né trách nhiệm bồi thường thiệt hại trừ trường hợp do bất khả kháng như thiên tai. Thậm chí trong nhiều trường hợp, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại thực tế xảy ra cũng không phải là yếu tố nhất thiết phải được chứng minh. Điều này lý giải việc pháp luật một số nước truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường cả những người không trực tiếp gây ô nhiễm môi trường mà chỉ là người sản xuất, chế tạo, cung cấp các chất gây ô nhiễm môi trường cho đối tượng khác sử dụng [30].

Tại Liên bang Nga trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực bảo vệ môi trường được ghi nhận là nguyên tắc hiến định. Điều 42 Hiến pháp Liên bang Nga quy định "Mọi người đều có quyền hưởng thiên nhiên môi trường trong lành, được biết thông tin xác thực về tình trạng môi trường và được bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra" [34].

Bộ luật Dân sự Liên bang Nga (năm 1996) cũng quy định các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường đối với một số

hành vi cụ thể (quy định tại các điều từ 1064 đến Điều 1109). Theo quy định của Điều 1064 Bộ luật Dân sự Liên bang Nga thì người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại gây ra đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân cũng như những thiệt hại về tài sản của pháp nhân. Người gây thiệt hại không có lỗi cũng có thể phải bồi thường trong trường hợp luật định. Điều 1082 Bộ luật này cũng quy định thiệt hại được bồi thường theo thực tế (đền vật cùng loại, sửa chữa vật bị hỏng…) hoặc bồi thường những tổn thất đã xảy ra [34]. Tuy nhiên, không có điều luật nào trong Bộ luật dân sự của Liên bang Nga đề cập trực tiếp đến vấn đề bồi thường thiệt hại về môi trường.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2002 của Liên bang Nga đã quy định về trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với môi trường xung quanh của pháp nhân, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại môi trường của công dân (các điều 77, 78, 79) [46].

Điều 77 Luật này quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường như sau:

Pháp nhân và thể nhân, gây thiệt hại đối với môi trường xung quanh do làm bẩn, ô nhiễm, hủy hoại, sử dụng không hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hủy diệt và làm tổn hại các hệ sinh thái tự nhiên, các quần thể, tổ hợp thiên nhiên và hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại theo quy định pháp luật [46].

Điều 87 Luật này đã thể hiện rõ chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi trường qua quy định cho phép Nhà nước kiện đề nghị bồi thường các thiệt hại đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên như thiệt hại cho ngành công nghiệp đánh bắt cá, tràn dầu… Giá trị đền bù trong những trường hợp này là giá trị nguồn tài nguyên bị mất mát hoặc chi phí cho việc khôi phục nguồn tài nguyên về tình trạng ban đầu.

Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới (được nghiên cứu) theo quan niệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một dạng trách nhiệm pháp lý dân sự [34], trong đó thiệt hại được bồi thường bao gồm:

- Chi phí cho các biện pháp phòng ngừa, gồm các chi phí cho việc sử dụng các biện pháp hợp lý nhằm ngăn ngừa và hạn chế các thiệt hại môi trường trước, trong và sau khi xảy ra sự cố môi trường, tại nơi có thiệt hại hoặc nơi có nguy cơ thiệt hại;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

- Chi phí cho việc khôi phục, phục hồi giá trị môi trường gồm chi phí trả cho các biện pháp được sử dụng nhằm hạn chế hoặc làm giảm các tác động bất lợi do thiệt hại môi trường gây ra và chi phí trả cho các biện pháp được sử dụng nhằm khôi phục lại các điều kiện, các đặc tính của môi trường trước khi thiệt hại xảy ra;

- Bồi thường cho thiệt hại môi trường thuần túy, gồm bồi thường cho việc làm "giảm giá trị của môi trường" tức là làm mất đi giá trị của môi trường đối với cộng đồng. Mất mát này có thể xảy ra do việc giảm đáng kể hoặc toàn bộ giá trị của môi trường; các đặc tính mà môi trường cung cấp cho cộng đồng, cho toàn thể xã hội cũng như cho một số đối tượng cụ thể tại cộng đồng;

Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường theo pháp luật dân sự Việt Nam - 6

- Bồi thường giá trị về mặt kinh tế giảm sút. Theo các quy tắc chung của luật pháp quốc tế thì việc bồi thường trước hết là khắc phục mọi hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật và phải khôi phục lại môi trường như trước khi có hành vi vi phạm. Việc bồi thường thiệt hại này được thực hiện bằng đền bù hiện vật, bồi thường tương đương bằng tiền.

1.5.2.2. Quan niệm của Việt Nam

Tương tự như Cộng đồng Châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam cũng quan niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một trách nhiệm pháp lý dân sự, là một dạng cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việt Nam cũng thực hiện nguyên

tắc "người gây ô nhiễm phải chi trả". Ngoài việc phải bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, lợi ích hợp pháp của tổ chức do sự suy giảm chức năng, tính hưữ ích của môi trường gây ra, người gây ô nhiễm còn phải bồi thường các thiệt hại do làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường.

Pháp luật hiện hành của Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm này. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường được xác định là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định "Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi" [18].

Khoản 5 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định "Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật" [20]. Có thể thấy rằng, pháp luật Việt Nam đã thể hiện nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải chi trả". Nguyên tắc này được kế thừa và phát triển từ các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993. Các quy định của pháp luật đã thể hiện một cách rõ ràng trách nhiệm của người gây ô nhiễm môi trường trong việc bồi thường những chi phí khôi phục môi trường, những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của các tổ phục, cá nhân mà không phân biệt họ có lỗi hay không có lỗi trong việc làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại.

Tóm lại, vấn đề bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một vấn đề vẫn còn mới mẻ cả về lý luận lẫn thực tiễn ở Việt Nam. Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường thể hiện đây là một loại trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại, là một dạng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, áp dụng đối với các tổ chức, cá

nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật môi trường, gây thiệt hại cho môi trường tự nhiên, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác. Các căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường tương tự như căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và được xác định là một trong những trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà theo đó, người gây thiệt hại do có hành vi làm ô nhiễm môi trường phải có nghĩa vụ bồi thường cả khi họ không có lỗi. Loại trách nhiệm này có những đặc điểm riêng biệt so với các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác là: hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của các chủ thể bị thiệt hại chỉ phát sinh sau khi môi trường đã bị suy giảm chức năng, tính hữu ích do hành vi vi phạm pháp luật gây ô nhiễm môi trường; người gây thiệt hại phải bồi thường cả về thiệt hại đối với môi trường (thiệt hại chung của cả cộng đồng, xã hội) và thiệt hại riêng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của từng cá nhân, tổ chức và phải chịu trách nhiệm ngay cả khi không có lỗi.

Chương 2‌‌

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG


2.1. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường pháp luật Việt Nam dựa trên các nguyên tắc xác định trách nhiệm dân sự nói chung. Việc xác định nghĩa vụ bồi thường thiệt hại luôn tuân thủ nguyên tắc chủ thể gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường. Cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường đã được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Khoáng sản... kể cả trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp.

Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự" [12].

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đã quy định về quyền yêu cầu bồi thường của công dân, tổ chức là chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp hoặc những người khác có liên quan và quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của những cá nhân, tổ chức, chủ thể khác có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Theo Điều 260 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì "Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại". Bên cạnh những quy định về quyền yêu cầu bồi thường

thiệt hại, Bộ luật Dân sự còn quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại... Chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể dựa trên căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 281 Bộ luật Dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường, bù đắp tổn thất về tinh thần (Điều 307 Bộ luật Dân sự năm 2005). Khoản 2 Điều 307 Bộ luật Dân sự xác định: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút." Trong trường hợp gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, người gây thiệt hại còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường được xác định là một dạng cụ thể của trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), do đó, việc xác định trách nhiệm của người gây thiệt hại trước tiên cần dựa trên nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó [18].

Trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, người có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường gây ô nhiễm môi trường, dẫn đến làm suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, gây thiệt hại cho môi trường và gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người khác thì phải có nghĩa vụ khắc phục hậu quả; bù đắp tổn thất về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người bị gây thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường đã được cụ thể hóa tại Điều 628 Bộ luật Dân sự năm 1995 và tiếp tục được kế thừa và phát triển tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2005: "Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi" [18].

Bên cạnh Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 cũng có những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Khoản 5 Điều 4 Luật này quy định một trong những nguyên tắc bảo vệ môi trường là: "Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật" [20].

Điều 49 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định:

Trường hợp có thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc gây ô nhiễm môi trường thì còn phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại mục 2 Chương XIV của Luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự." Và "tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật và các quy định khác của pháp luật có liên quan [20, khoản 3 Điều 93 ].

Liên quan đến mức bồi thường, hình thức bồi thường, Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định một trong những nguyên tắc bồi thường thiệt hại là "Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể

Xem tất cả 119 trang.

Ngày đăng: 02/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí