đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp. Chính việc quy định tùy nghi đã khiến thẩm phán không có thước đo chính xác, căn cứ rõ ràng để áp dụng biện pháp này, mà chủ yếu là dựa vào đánh giá, nhận thức của người Thẩm phán.
Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định định nghĩa pháp lý của khái niệm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Điều này khiến cho nhiều người nhầm lẫn biện pháp này với biện pháp trong Luật xử lý vi phạm hành chính. Ngoài ra điều kiện áp dụng biện pháp tư pháp này chưa được quy định chặt chẽ và hợp lý, còn mang tính tùy nghi.
Hơn nữa đối tượng cần áp dụng biện pháp tư pháp này nhất là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, lưa tuổi còn quá non nớt để phải cách ly ra khỏi môi trường sống bình thường lại không được áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, Do thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Hiện nay chỉ có Luật thi hành án hình sự năm 2010 quy định về thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên tại Mục 3 Chương X và Nghị định số 10/2012/NĐ-CP quy định chi tiết biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, Nghị định số 10/2012/NĐ-CP lại có một số quy định mâu thuẫn với quy định của Bộ luật hình sự. Điều 2 Nghị định quy định: "Nghị định này áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội bị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (trong Nghị định này gọi là người được giáo dục)", (tức là đối tượng áp dụng là người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên), trong khi đó một số điều (Điều 9, 10, 11, 15) của Nghị định lại quy định về các đối tượng dưới 16 tuổi (người dưới 16 tuổi phải có thêm ý kiến của cha, mẹ hoặc người
giám hộ của người đó). Điều này dẫn khiến các chủ thể thực hiện biện pháp này trong thực tế gặp khó khăn.
Các văn bản hướng dẫn chỉ đạo của ngành Tòa án chưa chú trọng vào việc giải thích, hướng dẫn áp dụng biện pháp tư pháp này cho nên khi xét xử một số vụ án, các thẩm phán thường né tránh và chọn các hình phạt không tước tự do để áp dụng.
Thứ ba, hiện nay nước ta vẫn chưa có một đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chuyên trách có kinh nghiệm và am hiểu tâm sinh lý của người chưa thành niên nên khi xem xét, giải quyết những vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên không thể tránh khỏi thói quen như khi giải quyết các vụ án có bị can, bị cáo là người đã thành niên, kể cả trong việc nhìn nhận, đánh giá sự việc và lượng hình. Trong quá trình giải quyết tại Tòa án, những lợi ích và nhu cầu chính đáng của người chưa thành niên chưa được quan tâm đúng mức; những kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết để giải quyết các vụ việc này chưa được tích lũy, trao đổi và trang bị cho các Thẩm phán một cách có hệ thống. Khi giải quyết các vụ án người chưa thành niên phạm tội, việc giải quyết của Tòa án còn nặng về xử lý mà thiếu những biện pháp cụ thể để giúp đỡ, giáo dục họ nhận thức và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm [9, tr. 13].
Thứ tư, do chưa có một cơ chế để bảo đảm cho việc thực thi biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong thực tế nên hiệu quả giáo dục và phòng ngừa còn rất hạn chế. Thực tiễn này đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc lựa chọn biện pháp tư pháp này trong khi xét xử và dẫn đến xu hướng chung là chọn hình phạt tù và trong trường hợp cần thiết thì áp dụng mức phạt tù thấp và cho hưởng án treo. Mặt khác, pháp luật cũng không quy định chế tài nào áp dụng trong trường hợp nếu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát, giáo dục hoặc gia đình và bản thân người chưa thành niên được áp dụng biện
pháp này không thực hiện đúng và đầy đủ những nghĩa vụ và trách nhiệm do pháp luật quy định.
Thứ năm, theo thực tiễn trước đây cho thấy chưa có sự phối với chặt chẽ các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương nơi có trách nhiệm giám sát người chưa thành niên phạm tội với nhau, cũng như sự phối hợp giữa gia đình các em với chính quyền địa phương cũng chưa được coi trọng. Dẫn đến việc định hướng nghề nghiệp cho các em sau khi thi hành xong biện pháp này còn bị lơ là, nhiều cơ quan, doanh nghiệp còn ngần ngại trong việc tiếp nhận đối tượng này làm việc cũng như tạo nguồn vốn cho họ để ổn định cuộc sống.
Có thể bạn quan tâm!
- Giai Đoạn Từ Khi Nhà Nước Ban Hành Bộ Luật Hình Sự Năm 1999 Đến Nay
- Quyền Lợi Và Nghĩa Vụ Của Người Chưa Thành Niên Phạm Tội Được Áp Dụng Biện Pháp Giáo Dục Tại Xã, Phường, Thị Trấn
- Thực Tiễn Áp Dụng Biện Pháp Tư Pháp Giáo Dục Tại Xã, Phường, Thị Trấn Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
- Điểm Mới Về Điều Kiện, Thẩm Quyền Áp Dụng Biện Pháp Giáo Dục Tại Xã, Phường, Thị Trấn Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
- Một Số Giải Pháp Khác Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Biện Pháp Giáo Dục Tại Xã, Phường, Thị Trấn Đối Với Người Chưa Thành Niên Phạm Tội
- Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
1. Có thể nói, những quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã đảm bảo được cơ bản những lợi ích của người chưa thành niên và đáp ứng được mục đích giúp đỡ họ nhận thức được sai lầm và sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh ngay tại cộng đồng nơi sinh sống để trở thành công dân có ích cho xã hội.
2. Tuy nhiên trên thực tế xét xử từ năm 2005 đến năm 2015 chỉ có 18 trường hợp bị cáo là người chưa thành niên phạm tội được áp dụng biện pháp này, đặc biệt trong 6 năm trở lại đây, biện pháp tư pháp này không được Tòa án xem xét áp dụng đối với những vụ án có bị can là người chưa thành niên phạm tội. Việc áp dụng biện pháp này gặp phải một số vướng mắc do một số quy định của pháp luật còn chưa cụ thể, đối tượng áp dụng biện pháp này bị giới hạn về độ tuổi (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi); các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao trách nhiệm áp dụng biện pháp này còn thiếu và yếu, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau.
3. Những hạn chế đó là do các quy định của pháp luật còn chưa đồng bộ, chưa thống nhất, chưa có nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành gây khó khăn cho việc áp dụng. Ngoài ra, còn do hạn chế về nhận thức, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng cũng như của các cơ quan, tổ chức, cá nhận được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục chưa thực sự đem lại hiệu quả cao, hơn nữa chưa có một cơ chế để đảm bảo việc thực thi biện pháp này trong thực tế.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI XÃ, PHƯỜNG THỊ TRẤN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
3.1. Một số điểm mới về quy định về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015
Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Thực tiễn xét xử của Tòa án hiện nay cho thấy, tình hình tội phạm chưa thành niên ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, trong
khi đó chế tài áp dung đối với họ chủ yếu là hình phạt tù , tuy nhiên, tỉ lệ tái
phạm trong lứa tuổi vị thành niên lại chiếm tỉ lê ̣cao. Điều này đã, đang gây ra
những quan ngaị về viêc
lưa
chon
chế tài áp dụng đối với người chưa thành
niên. Bên cạnh đó, những bất cập trong công tác giáo dục, cải tạo người bị kết
án phạt tù cũng gây nhiều tác đôn
g tiêu cưc
đến khả năng phuc
hồi của người
chưa thành niên . Tuy việc áp dụng các biện pháp mang tính giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta. Mặc dù đây là một chính sách hết sức nhân đạo nhưng trên thực tế 14 năm thi hành BLHS 1999
cho thấy việc Tòa án áp dụng các biện pháp tư pháp, trong đó có biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội còn
hạn chế, hiệu quả thực hiện không cao. Vì vậy, ngày 27/11/2015 với 84,01% số phiếu tán thành, BLHS 2015 đã được thông qua tại kỳ họp lần thứ 10,
Quốc hội khóa XIII. BLHS đã có quy định về việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người chưa thành niên phạm tội, theo đó biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn không còn là biện pháp
tư pháp nữa mà trở thành biện pháp thay thế xử lý hình sự. Việc hoàn thiện các quy định về người chưa thành niên phạm tội, mà cụ thể là biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn một mặt nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, mặt khác đã đặt lợi ích của người chưa thành niên lên hàng đầu. Điều này phù hợp với Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX: "Chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức..." [10, tr. 107].
3.1.1. Điểm mới về nguyên tắc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội
Khoản 2 Điều 91 BLHS 1999 sửa đổi 2015 quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:
2. Người dưới 18 tuổi pham
tôi
thuộc một trong các trường
hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ , tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29
của Bộ luật này , thì có thể đươc
miên
trách nhiêm
hình sự và áp
dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hơp
quy điṇ h taị Điều 134
(tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ
trái phép chất ma túy ); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy ); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi pham
tôi
rấ t nghiêm
trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này , trư
trường hơp
quy điṇ h taị Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các
khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy ); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy ); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy ); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy ); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng pham không đáng kể trong vụ án.
nhưng có vai tro
Thứ nhất, BLHS 2015 đã thay thế thuật ngữ "người chưa thành niên phạm tội" bằng thuật ngữ "người dưới 18 tuổi phạm tội".
BLHS 1999 đã có những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội tại Chương X. Theo đó: "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này" [32, Điều 68].
BLHS 2015 đã thay thế thuật ngữ "người chưa thành niên phạm tội" bằng thuật ngữ "người dưới 18 tuổi phạm tội" và được quy định tại chương
XII. Điều 90 quy định: "Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này" [33, Điều 90]. Như vậy BLHS 2015 đã kế thừa các quy định của BLHS hiện hành về việc xác định độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Mặc dù gần đây có nhiều vụ án do người chưa thành niên phạm tội với mức độ đặc biệt nghiêm trọng, gây hoang mang trong dư luận, hơn nữa độ tuổi người chưa thành niên gây án ngày càng trẻ hóa và đã có nhiều ý kiến về việc hạ thấp độ tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên như TS. Trịnh Tiến Việt đã phát biểu thì "Chính sách hình sự nhân đạo của pháp luật và sự phát triển về thể chất phải phù hợp với khả năng chịu trách nhiệm. Nếu hạ thấp thì số lượng người chưa thành niên phạm tội sẽ tăng rất nhiều và có phần nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội".
Như đã phân tích ở Chương I, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chính thức về người chưa thành niên phạm tội dẫn đến những cách hiểu khác nhau về đối tượng này, vì đây là một thuật ngữ chung, mang yếu tố định tính nhiều hơn. Vì vậy BLHS 2015 đã thay thế bằng thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội, mang yếu tố định lượng. Bằng việc quy định cụ thể giới hạn độ tuổi của những đối tượng này sẽ khắc phục được hạn chế này.
Thứ hai, BLHS năm 2015 quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn TNHS chứ không phải là biện pháp tư pháp thay thế cho hình phạt như quy định trong BLHS hiện hành.
Khoản 4 Điều 69 BLHS 1999 quy định: "Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này" [32, Điều 69].