Hoàn Thiện Một Số Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Về Biện Pháp Bắt Buộc Chữa Bệnh

trường hợp này tránh trường hợp lung túng và đùng đẩy trách nhiệm trong việc quản lý, chăm sóc người bệnh đã được điều trị ổn định và trở về với địa phương.

Phổ biến hiện nay là bệnh nhân mắc bệnh tâm thần phân liệt, phát bệnh do bệnh lý của não, do những biến đổi sinh học phức tạp hoặc tác động tâm lý bất lợi. Đã có không ít vụ án mạng thương tâm xảy ra mà thủ phạm là những người bị bệnh tâm thần phân liệt. Hậu quả đau lòng ấy là do họ không được quan tâm, phát hiện, đưa đi chữa trị kịp thời. Tuy nhiên, điều đáng nói là mạng lưới tâm thần của chúng ta hiện nay mới chỉ quản lý bệnh nhân mắc bệnh tâm thần ở dạng này. Còn những dạng như: Trầm cảm, lo âu, rối loạn hành vi, sa sút tâm thần, kích động do loạn thần vì uống rượu…thì vẫn chưa được để ý. Hiện xã hội còn định kiến với bệnh tâm thần mà thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc với người bệnh. Mặt khác, nhiều gia đình còn tìm cách giấu bệnh, để người thân điều trị tại nhà hoặc đến các phòng khám tư, điều này tạo khó khăn cho việc nắm bắt thông tin cũng như quản lý người bệnh. Bởi, người bệnh được đưa vào danh sách Nhà nước quản lý hay không phải chờ tới sự cho phép của gia đình người bệnh.

Hơn nữa, hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều người có tiền sử liên quan đến bệnh tâm thần bỏ nhà đi lang thang, không ai kiểm soát. Điều đó đang tiềm ẩn nhiều mối nguy hại cho cộng đồng. Vấn đề quản lý người tâm thần như thế nào để phòng ngừa tội phạm đang là nỗi trăn trở, thu hút nhiều mối quan tâm hiện nay. Theo tác giả, để có thể quản lý người bệnh tâm thần phải xây dựng cơ chế ràng buộc trách nhiệm đối với người thân của họ thì mới hiệu quả. Cá nhân nào tạo áp lực, không đưa người có triệu chứng tâm thần đi chữa bệnh, gây hậu quả nghiêm trọng, thì cần có biện pháp răn đe. Một điều đáng lo ngại nữa là hiện nay chúng ta chưa có cơ chế quản lý đối với người mắc bệnh tâm thần hay hành lang pháp lý để bảo vệ cho cán bộ, công nhân viên đang làm việc trong lĩnh vực điều trị bệnh tâm thần trong các cơ sở điều trị. Vì thế, họ chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ xã hội bởi hằng ngày họ phải đối diện trong rủi ro trước sự đe dọa do tình trạng bệnh tật của người bệnh.

Hơn nữa, trong quá trình thu thập số liệu tác giả nhận thấy rằng trong tất cả các báo cáo tổng kết, thống kê hay danh sách hồ sơ các vụ án hình sự của cả Toà án và Viện kiển sát đều không đề cập đến việc áp dụng BPBBCB mặc dù việc áp dụng là đáng kể. Thiết nghĩ với bộ phận thống kê chuyên trách của Toà án và VKS thì công việc thống kê thêm BPBBCB trong các báo cáo thống kê sẽ không mất nhiều thời gian và không quá phức tạp nhưng sẽ rất có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu sau này.

Việc quy định và áp dụng BPBBCB trên thực tế không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực và những giá trị nhân đạo mà BPBBCB đã làm được, tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận một thực tế là hiện nay quy định của pháp luật về BPBBCB đang tồn tại nhiều bất cập cả trong quy định của điều luật và cả việc thi hành trên thực tế. Điều này vừa không đáp ứng được nhu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm một cách linh hoạt, vừa ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng. Trong bối cảnh mà Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện đẩy mạnh việc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49 -NQ/TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020 của Bộ chính trị thì việc sửa đổi, hướng tới hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và BPBBCB nói riêng là việc làm rất cần thiết và cần được triển khai nhanh chóng hơn.‌

Từ những quy định của pháp luật hình sự và thực trạng áp dụng BPBBCB trong thực tế, tác giả xin đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật hình sự về BPBBCB và để việc thi hành biện pháp này trên thực tế đạt được nhiều hiệu quả hơn.

3.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự về biện pháp bắt buộc chữa bệnh

Từ các kiến giải nói trên, để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính khả thi cũng như hiệu quả áp dụng BPBBCB trong BLHS 1999, tác giả xin có một số đề xuất trên các bình diện về lập pháp và về thực tiễn như sau:

3.2.1. Về lập pháp

Trong thực tế áp dụng BPBBCB cho thấy còn có một số tồn tại mà hiện nay

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Luật còn bỏ ngỏ (chưa quy định) đã làm cho các cơ quan tố tụng còn nhiều lúng túng do chưa có cơ sở pháp lý hoặc tuy có quy định nhưng còn chung chung chưa rõ ràng, do đó theo tác giả cần bổ sung và sửa đổi các quy định có liên quan đến quy định về BPBBCB để nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thực tế:

Một là, bổ sung quy định về khái niệm BPBBCB. Trong BLHS 1999 chỉ quy định về nội dung của biện pháp này mà không quy định thế nào là BPBBCB. Việc quy định một định nghĩa về BPBBCB được quy định tại Điều 43 BLHS nhằm đưa ra một định nghĩa chính xác nhất, tránh gây tranh cãi trong khoa học luật hình sự cũng như để mọi người trong xã hội hiểu rõ được tính chất pháp lý của biện pháp này. Theo tác giả, nên quy định như sau:

Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 11

“Điều 43. Bắt buộc chữa bệnh

1. “Bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế do Tòa án, Viện kiểm sát tùy theo giai đoạn tố tụng áp dụng buộc người mà trong hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trước khi xét xử hoặc đang chấp hành hình phạt mà mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh, nhằm xử lý tội phạm được triệt để, đồng thời loại bỏ những điều kiện có thể dẫn đến tội phạm mới trong tương lai do tình trạng bệnh của người bị áp dụng.”

Hai là, để đảm bảo về mặt kỹ thuật lập pháp đồng thời nhằm tránh sự tùy tiện trong quá trình áp dụng, theo tác giả nên bỏ từ “một” được quy định tại khoản 1 Điều 13 BLHS 1999 như hiện nay. Cụ thể, nên quy định như sau:

Điều 13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

2. ..”

Ba là, cần sớm ban hành văn bản quy định TNHS của người phạm tội khi có

năng lực TNHS nhưng sau đó lâm vào tình trạng không có năng lực TNHS, đã áp dụng BPBBCB và đã khỏi bệnh, trong đó phải quy định rõ trong trường hợp nào thì người này phải chịu TNHS, trường hợp nào không.

Bốn là, cần sớm có văn bản hướng dẫn chi tiết việc xác định các loại bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi là những loại bệnh gì ? Trong đó nên quy định cụ thể về mức độ, tình trạng bệnh, các tiêu chuẩn, dấu hiệu để xác định người phạm tội có hay không có năng lực TNHS khi

mắc phải các bệnh khác này. Qua tìm hiểu và nghiên cứu cho thấy các loại bệnh sau đây có thể làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người mắc bệnh do đó cần đưa vào danh mục: tâm thần phân liệt (tên quốc tế là Schizophrenia), bệnh động kinh, rối loạn tâm thần thực tổn (có tên quốc tế là Organic Mental Disorders), rối loạn hoang tưởng (có tên quốc tế là Delusional Disoders).

Năm là, mặc dù bị can, bị cáo thực hiện tội phạm trong khi có năng lực TNHS nhưng trước khi xét xử bị can, bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi không thể làm việc với cơ quan tố tụng mà theo kết luận của Hội đồng giám định là cần phải được điều trị thì có bị áp dụng BPBBCB không ? Và nếu có thì cơ quan nào sẽ ra quyết định áp dụng BPBBCB ? Do đó, theo tác giả nên quy định cụ thể theo hướng cơ quan nào có thẩm quyền áp dụng BPBBCB thì cơ quan đó có quyền đề nghị áp dụng bắt buộc chữa bệnh trong trường hợp này.

Sáu là, theo quy định tại Điều 315 BLTTHS thì khoản 3 Điều 43 BLHS 1999 được hiểu là BPBBCB được áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 43 BLHS 1999 lại quy định BPBBCB được áp dụng đối với “người đang chấp hành hình phạt”. Thiết nghĩ quy định này là chưa phù hợp, bởi lẽ nếu theo quy định như hiện nay thì khoản 3 Điểu 43 BLHS 1999 có thể hiểu BPBBCB được áp dụng chung cho những người đang chấp hành hình phạt (không kể là hình phạt gì: cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ,…). Do đó, để tránh trường hợp có nhiều cách hiểu khác nhau cũng như tránh sự tùy tiện trong quá trình áp dụng BPBBCB, theo tác giả tại khoản 3 Điều 43 BLHS 1999 cần quy định rõ đối tượng áp dụng BPBBCB là người đang chấp hành hình phạt tù, và

sẽ là hợp lý khi quy định:

Điều 43: Bắt buộc chữa bệnh

3. Đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Tòa án có thể quyết định đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt, nếu không có lý do khác để miễn chấp hành hình phạt.”

Ngoài ra, như nêu ra ở phần trên, có thể thấy rằng Điều 14 BLHS 1999 hiện nay còn có nhiều khúc mắc trong vấn đề lý luận như có nên truy cứu TNHS đối với những người say bệnh lý, những người không có lỗi đối với tình trạng say của mình hay vấn đề xác định năng lực TNHS đối với người say ? Do vậy, để giải quyết vấn đề này cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về trường hợp người phạm tội say như thế nào (say thường hay do say bệnh lý…). Nếu là say bệnh lý hay say mà người say không có lỗi đối với tình trạng say của mình theo tác giả thì không nên truy cứu TNHS đối với họ. Có thể xem say bệnh lý là một loại bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi được quy định tại Điều 13 của BLHS. Ngược lại nếu biết mình bị say bệnh lý mà vẫn cố tình uống thì sẽ vẫn bị truy cứu TNHS.

3.2.2. Về thực tiễn

Một là, cần quy định thống nhất cách thức giải quyết khi xảy ra trường hợp có nhiều biên bản giám định pháp y mà kết quả không giống nhau. Tác giả cho rằng trong trường hợp có nhiều kết quả giám định về năng lực TNHS mà các kết quả đó là hoàn toàn không giống nhau đối cùng một trường hợp thì Tòa án không nên căn cứ vào kết luận nào cả mà nên tổ chức trưng cầu giám định ở tổ chức cao hơn để có được kết luận có tính thuyết phục hơn.

Mặt khác để tránh trường hợp có nhiều kết quả giám định trái ngược nhau đối với cùng một trường hợp gây bức xúc trong dư luận như hiện nay, pháp luật cần

quy định một tiêu chuẩn cụ thể về giám định, về kết quả giám định pháp y tâm thần trên cơ sở chính xác nhất về mặt y học để đảm bảo tính khách quan và chính xác trong quá trình giám định.

Hai là, về cơ quan thi hành quyết định bắt buộc chữa bệnh, như đã phân tích ở trên thì những người bị áp dụng BPBBCB cần được điều trị tại một cơ sở chuyên khoa y tế riêng biệt với chế độ sinh hoạt, nội qui và cách thức quản lý mang tính đặc thù, bởi những đối tượng này không giống như những bệnh nhân bình thường khác, điều này một mặt vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước với những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mặt khác vừa thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với những bệnh nhân khác - những công dân bình thường không may mắc bệnh cũng như để bảo đảm sự an toàn cho họ.

Ba là, chỉ được tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng có sơ sở, chứng cứ nhất định để nghi ngờ về tình trạng năng lực TNHS của bị can, bị cáo. Vì trên thực tế do lo ngại về việc vi phạm tố tụng nên có rất nhiều trường hợp dù bị can, bị cáo có biểu hiện mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi hay không thì các cơ quan tiến hành tố tụng thường yêu cầu giám định trước, sau khi có kết luận của cơ quan giám định thì mới giải quyết tiếp vụ án. Điều này làm cho việc yêu cầu giám định đã trở nên tùy tiện, mất công sức, thời gian, tiền của do đó là hợp lý khi việc giám định năng lực TNHS không phải là giai đoạn bắt buộc trong quá trình tố tụng.

Bốn là, cần xử lý nghiêm đối với những trường hợp cố tình làm sai lệch kết quả giám định pháp y tâm thần của các cá nhân, tổ chức được giao nhiệm vụ giám định. Việc xác định một người có năng lực TNHS hay không mang tính chất rất quan trọng đối với việc truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ trên thực tế họ đã thực hiện những hành vi mà theo quy định của pháp luật hình sự thì hành vi đó là tội phạm. Do đó, việc cố tình làm sai lệch kết quả giám định pháp y tâm thần sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội, điều này ảnh hưởng rất lớn đến an ninh xã hội cũng như đến quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị yêu cầu giám định.

Năm là, cần đưa chỉ tiêu thống kê việc áp dụng BPBBCB vào hệ thống thống kê của ngành Tòa án và Viện kiểm sát nhằm giúp cho quá trình nghiên cứu áp dụng biện pháp này trên thực tế để từ đó đưa ra các kiến nghị kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng đối với biện pháp này.

3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về biện pháp bắt buộc chữa bệnh

Thứ nhất, tăng cường cở sở vật chất và trang thiết bị hiện đại cho các tổ chức giám định pháp y tâm thần vì các trang thiết bị có khi đã lạc hậu nhằm tránh trường hợp có nhiều kết luận giám định pháp y tâm thần sai lầm, mâu thuẫn như hiện nay.

Để xác định năng lực TNHS đối với bị can, bị cáo đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan giám định pháp y tâm thần. Giám định pháp y tâm thần là một quá trình phức tạp, do đó bên cạnh việc đòi hỏi tính chuyên sâu về chuyên môn trong tâm thần học thì sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện kỹ thuật hiện đại đóng vai trò hết sức quan trọng góp phần đảm bảo tính chính xác của việc giám định, trong đó có thể giúp cho giám định viên theo dõi tình trạng bệnh cũng như dễ dàng phát hiện ra được sự giả tạo của người được giám định. Tuy nhiên, tình trạng chung hiện nay tại các trung tâm giám định pháp y tâm thần cơ sở vật chất còn thiếu và đã lỗi thời, lạc hậu đòi hỏi phải có sự quan tâm đầu tư đúng mức về phương tiện kỹ thuật hỗ trợ nghiệp vụ cho các cơ quan giám định pháp y tâm thần nhằm tạo điều kiện cho quá trình giám định được tiến hành nhanh chóng và chính xác.

Thứ hai, song song với đó cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các giám định viên tư pháp trong việc giám định khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội, đặc biệt là nhận thức của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giám định về những bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi bởi những nội dung này chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết, vừa là để tránh tình trạng lạm dụng quy định của luật, vừa là để bảo vệ cho quyền lợi của người tham gia tố tụng.

Giám định pháp y tâm thần là một chuyên ngành chuyên sâu trong tâm thầnhọc. Trong vai trò bổ trợ quan trọng cho việc xét xử, giám định pháp y tâm thầnkhông những góp phần bảo vệ sự trong sáng của luật pháp mà còn bảo vệ quyền lợi

người bệnh tâm thần. Việc xác định năng lực TNHS là yếu tố mang tính chất quyết định và cũng là bước đầu tiên của quá trình tố tụng trong một vụ án hình sự do đó cần phải có một đội ngũ giám định viên có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm mới có thể đáp ứng được nhu cầu giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đội ngũ giám định viên tư pháp ở nước ta hiện nay còn thiếu về số lượng (mỗi tỉnh trung bình chỉ có khoảng 3 đến 4 giám định viên), giám định viên có tay nghề giỏi chưa nhiều (vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp giám định không đúng với tình trạng năng lực TNHS của người được giám định). Do đó, cần bố trí hợp lý, tiếp tục cũng cố và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ giám định viên theo hướng tổ chức đào tạo trong và ngoài nước ở trình độ sau đại học, kết hợp đào tạo theo địa chỉ vùng miền để đáp ứng nhu cầu đào tạo của mỗi địa phương. Với nhu cầu cần giám định viên có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn giỏi như hiện nay sẽ là hợp lý nếu tận dụng được đội ngũ cán bộ giám định viên có thâm niên lâu năm trong công tác giám định pháp y tâm thần bằng cách có thể kéo dài thời gian công tác đối với các giám định viên nếu có đủ sức khỏe và đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác. Bên cạnh đó cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn và pháp luật cho cho đội ngũ giám định viên trẻ, đặc biệt là đội ngũ giám định viên tại các Trung tâm Giám định pháp y tâm thần ở các tỉnh, đồng thời cần có cơ chế quản lý đối với các giám định viên trong việc đảm bảo chất lượng giám định.

Thứ ba, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức về sức khỏe tâm thần, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp cho những người tiến hành tố tụng để khắc phục dần tình trạng giám định viên độc quyền trong việc quyết định tình trạng năng lực TNHS của bị can, bị cáo như hiện nay.

Bên cạnh kiến thức chuyên môn về pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự còn đòi hỏi ở đội ngũ người tiến hành tố tụng phải có những kiến thức cơ bản về sức khỏe tâm thần để đảm bảo khả năng phát hiện sớm các trường hợp có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2023