Khái Niệm Biện Pháp Bảo Lĩnh Trong Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam

bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những BPNC sau đây: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [34].

Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: “BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang và người cần phải bắt trong trường hợp khẩn cấp, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm của họ, ngăn chặn người đó gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn” [9].

Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm:

BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [53].

Nhìn chung, các quan điểm khoa học trên đã chỉ ra những yếu tố cần có của một BPNC đó là: xác định thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, mục đích áp dụng, được quy định trong BLTTHS. Các BPNC là quy phạm có tính chất lựa chọn, không phải tất cả các đối tượng đều bị áp dụng BPNC mà chỉ trong những trường hợp pháp luật quy định. BPNC thể hiện sự tác động từ phía cơ quan THTT đối với bị can, bị cáo, người bị kết án, đối với người chưa bị khởi tố trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội

quả tang. Cần phải hiểu rõ các BPNC không có tính chất trừng phạt, mà chỉ là phương tiện đảm bảo cho việc làm rõ trách nhiệm hình sự và trong thực tế hoàn toàn có khả năng một người phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không bị áp dụng BPNC. Do đó, khái niệm BPNC cần mang tính khoa học, logic, phân định rõ ràng về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng:

Biện pháp ngăn chặn là một trong những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, ngăn chặn việc bị can, bị cáo cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án cũng như ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội.

Qua những phân tích trên cho thấy, so với biện pháp cưỡng chế TTHS thì BPNC có nội dung và phạm vi hẹp hơn. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp dụng nhiều biện pháp cưỡng chế. Ngoài BPNC, biện pháp cưỡng chế còn có các biện pháp thu thập chứng cứ (khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…) và các biện pháp bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án (kê biên tài sản, áp giải các bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng...) [54]. Những nhóm biện pháp này cùng song song tồn tại và hỗ trợ lẫn nhau, đều phải giải quyết những nhiệm vụ khác nhau. Đối tượng áp dụng của biện pháp cưỡng chế rộng hơn BPNC, đó là người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là phạm tội, bị can, bị cáo, người làm chứng,… So với các biện pháp cưỡng chế khác trong TTHS thì BPNC có tính nghiêm khắc hơn, nên các cơ quan THTT cũng cần cân nhắc thận trọng khi áp dụng, tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân. Mục đích áp dụng của BPNC là kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người

phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật và tạo điều kiện để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội tiêu hủy chứng cứ, xóa dấu vết, không để người phạm tội và người làm chứng thông cung... Mục đích của biện pháp cưỡng chế bao quát hơn đó là ngoài những mục đích trên biện pháp cưỡng chế còn có mục đích răn đe, đảm bảo cho hoạt động thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền được thuận lợi để tìm ra chứng cứ xác thực, kịp thời góp phần cho việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử diễn ra thuận lợi.

1.1.2. Khái niệm biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Biện pháp bảo lĩnh đã được quy định từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm bảo lĩnh, có thể chỉ ra một số quan điểm sau:

Theo BLTTHS năm 2003, quy định tại Điều 92: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh” [34].

Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 3

Quan điểm này đã làm rõ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh đó là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, đây là hai căn cứ quan trọng, là cơ sở pháp lý mà các cơ quan THTT dựa vào đó để áp dụng. Còn điều kiện áp dụng như thế nào thì chưa được đặt ra.

Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam – Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng:

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự thay thế cho biện pháp tạm giam, được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy

cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng [9].

Đồng quan điểm này Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập” [53].

Các quan điểm này đã làm rõ thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đối tượng áp dụng, chủ thể nhận bảo lĩnh, thủ tục bảo lĩnh, mục đích áp dụng biện pháp này nhưng lại thiếu sót khi chưa đưa ra căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh.

Quan điểm của GS. TS Võ Khánh Vinh cho rằng:

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS do người có thẩm quyền áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo. Bảo lĩnh là BPNC ít nghiêm khắc hơn tạm giữ, tạm giam, được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án [57].

Bên cạnh việc làm sáng tỏ về thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, tác giả đã chỉ rõ hơn điều kiện và mục đích áp dụng biện pháp bảo lĩnh mà không phải quan điểm nào cũng nêu ra là “được áp dụng trong trường hợp không cần thiết phải tạm giam, nhưng thấy cần ngăn ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án”. Tuy nhiên, căn cứ áp dụng BPNC là gì thì chưa được tác giả đề cập.

Quan điểm của TS Trần Quang Tiệp cho rằng:

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn được các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân, lai lịch rõ ràng, để thay thế biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng khi cần [41].

Quan điểm trên về cơ bản đã nêu được thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo; mục đích áp dụng là “không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử và đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT” nhưng lại chưa cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bởi, nếu chỉ căn cứ vào tình tiết “nhân thân, lai lịch bị can, bị cáo” thì xem ra là chưa đầy đủ, chưa khách quan. Xem xét về mặt nhân thân chỉ là một yếu tố cần để làm cơ sở pháp lý chứ chưa phải là yếu tố đủ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bên cạnh việc xem xét căn cứ nhân thân bị can, bị cáo, còn cần phải xem xét tới tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo đã gây ra cũng như xét tới khả năng bỏ trốn hoặc cản trở của họ.

Nhìn chung, các quan điểm đều ghi nhận bảo lĩnh với tư cách là một BPNC, thay thế biện pháp tạm giam. Mặc dù là một biện pháp thay thế, nhưng biện pháp bảo lĩnh có tính chất ít nghiêm khắc hơn so với tạm giam, nó không làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, không tách họ ra khỏi cộng đồng. Tuy nhiên, các quan điểm trên vẫn chưa thể hiện đầy đủ các đặc điểm vốn có của một BPNC như:

- Các quan điểm nêu trên hầu như thiếu xót căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Căn cứ áp dụng BPNC tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các

BPNC. Nguyên tắc pháp chế trong TTHS cho thấy, mọi hoạt động tố tụng, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của BLTTHS. Vì thế, việc đặt ra căn cứ áp dụng BPNC cũng cần được quy định trong BLTTHS để đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ.

- Các quan điểm nêu rằng cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo lĩnh là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, điều này là chưa chính xác, bởi tất cả các cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng đều thực hiện những nhiệm vụ cụ thể đã được pháp luật quy định thông qua các chủ thể có thẩm quyền, chứ bản thân các cơ quan thì khó mà thực hiện được.

Qua việc phân tích và tổng hợp các quan điểm về biện pháp bảo lĩnh, có thể đưa ra một định nghĩa khoa học, đầy đủ về khái niệm bảo lĩnh như sau:

Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan THTT.

Hiểu biết về biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự, sẽ tránh được tình trạng nhầm lẫn với biện pháp bảo đảm bảo lãnh trong dân sự. Việc làm sáng tỏ hai biện pháp bảo lĩnh và bảo lãnh sẽ hạn chế những hiểu lầm trong việc sử dụng thuật ngữ pháp lý và trong việc nhận biết bản chất pháp lý của chúng. Như đã trình bày ở trên, biện pháp bảo lĩnh được quy định trong Luật TTHS, do chủ thể có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, khi có đủ căn cứ và điều kiện do pháp luật quy định nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo cản trở điều tra, truy tố, xét xử… Còn biện pháp bảo lãnh được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự, được hiểu là việc người thứ ba cam kết với người có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà người

đó không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện. Bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao kết hợp đồng. Căn cứ áp dụng biện pháp bảo lãnh có thể do các bên tự thỏa thuận. Đối tượng của bảo lãnh được ghi nhận là thực hiện một công việc hoặc vật, tiền, tài sản có giá trị thì đối tượng của bảo lĩnh là bị can, bị cáo. Biện pháp bảo lãnh thể hiện mối quan hệ xã hội bình đẳng, trên cơ sở tự nguyện của 3 bên, người bảo lãnh, người nhận bảo lãnh và người được bảo lãnh. Các mối quan hệ trong biện pháp bảo lĩnh tuy có 3 bên nhưng trong đó lại thể hiện quan hệ mang tính quyền uy – phục tùng giữa Nhà nước và bị can, bị cáo. Vì thế, trách nhiệm của các bên trong mối quan hệ ấy cũng khác nhau. Bảo lãnh trong dân sự cho phép các bên có thể thực hiện quyền thay cho nhau hoặc thỏa thuận lại, còn biện pháp bảo lĩnh không như vậy, các quyền và nghĩa vụ được phân định rõ ràng, mang tính cá thể hóa trách nhiệm hình sự.

Từ khái niệm và những nhận định trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của biện pháp bảo lĩnh như sau:

Thứ nhất, bảo lĩnh là một trong những BPNC trong Luật TTHS. Điều này được ghi nhận qua những quy định trong BLTTHS năm 2003 về những BPNC bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Cùng với những biện pháp này, BLTTHS hiện hành đã có quy định cụ thể và chi tiết tại chương VI về thẩm quyền áp dụng, căn cứ áp dụng, thủ tục áp dụng đối với mỗi loại biện pháp. Biện pháp bảo lĩnh được chủ thể của cơ quan có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.

Thứ hai, bảo lĩnh là một BPNC có tính ít nghiêm khắc. Nói như vậy là xét trong mối tương quan giữa biện pháp tạm giam và biện pháp bảo lĩnh. Đây cũng là đặc điểm thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta đối với một số loại tội phạm, với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là ít nghiêm trọng hoặc phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt… thì những bị can, bị cáo có thể được áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Người được bảo lĩnh không bị hạn chế các quyền công dân khác như những bị can, bị cáo bị tạm giữ, tạm giam nếu họ không gây trở ngại, khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Điều này cũng tránh cho họ phải chịu áp lực tạm giam chung với tội phạm chuyên nghiệp.

Thứ ba, bảo lĩnh là một BPNC được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam. Biện pháp bảo lĩnh chỉ được đặt ra khi bị can, bị cáo có quyết định tạm giam hoặc đang bị tạm giam. Trong trường hợp cơ quan THTT xét thấy không cần thiết phải tạm giam thì bị can, bị cáo có thể được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Đặc điểm này thể hiện bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cũng như quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 với nôi dung “Xá c

điṇ h rõ căn cứ tam

giam ; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với

môt

số loai

tôi

pham

; thu hep

đối tượng ngườ i có thẩm quyền quyết điṇ h viêc

áp dụng các biện pháp tạm giam…” [5].

Thứ tư, đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là người bị khởi tố về mặt hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Những người chưa bị khởi tố về hình sự hoặc người chưa bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không phải là đối tượng áp dụng biện pháp này [56; 57].

Thứ năm, để áp dụng biện pháp bảo lĩnh, chủ thể THTT phải dựa vào các căn cứ và điều kiện nhất định. Căn cứ áp dụng BPNC chính là cơ sở pháp

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí