Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 2

Điều 20 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định [36].

Quy định này của Hiến pháp đã đ ảm bảo công dân không bị áp dụng BPNC một cách tùy tiện. Trong nhiều trường hợp, nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xét thấy không cần thiết phải áp dụng các biện pháp mạnh trên thì phải thay đổi ngay BPNC khác có tính ít nghiêm khắc hơn, như thế thể hiện sự tự tin trong nhận thức, dám nghĩ, dám làm của người THTT, vừa tạo

dựng được niềm tin của nhân dân đối với chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Mặt khác , tinh thần của Nghi ̣quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị về môt

số nhiêm

vu ̣tron

g tâm công tác tư pháp trong thời gian tới ;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/04/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây

dưn

Biện pháp bảo lãnh trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 2

g và hoàn thiên

hê ̣thống pháp luâṭ Viêṭ Nam đến năm2010, điṇ h hướng đến

năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về

Chiến lươc

cả i cách tư pháp năm 2020 chỉ rõ nôi

dung “Xác định rõ căn cứ

tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam…”[5] lại càng thể hiện rõ hơn quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc hạn chế áp dụng các BPNC có tính nghiêm khắc nói chung và hạn chế, thay thế áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng, nhằm bảo đảm yêu

cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm gắn với việc bảo vệ quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.

Cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm được xem là các biện pháp có tính ít nghiêm khắc và được các cơ quan THTT áp dụng để thay thế biện pháp tạm giữ, tạm giam khi các cơ quan này xét thấy không cần thiết phải tạm giữ, tạm giam nhưng vẫn cần thiết phải ngăn chặn, phòng ngừa bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Trong các biện pháp này thì bảo lĩnh là một biện pháp đảm bảo mục đích trên. Tuy được sử dụng để thay thế biện pháp tạm giam nhưng khi áp dụng biện pháp bảo lĩnh, các bị can, bị cáo không bị tước đoạt tự do, không bị hạn chế các quyền công dân miễn sao việc thực hiện các quyền này không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.

Mặc dù là một biện pháp ưu việt được quy định từ BLTTHS năm 1988, song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án trong nhiều năm qua cho thấy, chế định bảo lĩnh ít được các cơ

quan THTT sử dụng bởi còn thiếu nhiều quy pham hư ớng dẫn cụ thể cần làm

sáng tỏ xung quanh chế định này như : Căn cứ áp dụng vẫn còn mơ hồ, thiếu quy định cụ thể về tiêu chuẩn của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh; Nhiều trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo bỏ trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của họ…

Tình hình trên xảy ra là do nhiều nguyên nhân , bao gồm yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan, vì vậy cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ các vướng mắc còn tồn tại của biện pháp bảo lĩnh để từ đó làm rõ hơn về mặt khoa học pháp lý cũng như về mặt thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đáp ứng được yêu cầu , nhiệm vụ trong tình hình mới , hướng tới sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật TTHS Viêṭ Nam.

Vì lẽ đó , tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biên

phá p bảo linh

trong Luât

tố tun

g hình sự Viêṭ Nam " – môt

vấn đề mang tính cấp bách ,

thiết thưc

không những về măṭ lý luân

mà cả về măṭ thưc

tiên

trong giai đoan

xây dưn

g Nhà nước pháp quyền hiên

nay.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Các BPNC trong Luật TTHS giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc áp dụng đúng các BPNC có ảnh hưởng rất lớn đến quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì thế, nhận thức đúng, áp dụng đúng các BPNC là cần thiết. Do đó đã có nhiều bài

viết về các BPNC được đề cập đến ở các mức độ khác nhau, những khía caṇ h khác nhau.

Ở cấp độ luận văn thạc sĩ , có các đề tài của các tác giả : Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; Lê Thanh Bình, Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; v.v…

Ở cấp độ luận án tiến sĩ, có các đề tài của một số tác giả: Nguyễn Văn Điệp, Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nôị , 2005; Nguyễn Trọng Phúc, Chế định các biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng

hình sự Việt Nam, Hà Nội, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2010; v.v…

Bên caṇ h đó , về giáo trình , sách chuyên khảo , bình luận có các công

trình sau : PGS. TS Nguyên

Ngoc

Chí (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố

tụng hình sự Việt Nam , Nxb Đaị hoc Quốc gia , Hà Nội ; Ths. Phạm Thanh

Bình và TS .Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993; TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công trình Các biện pháp ngăn và những

vấn đề nâng cao hiệu quả của chúng, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1995;

Ths. Nguyễn Mai Bộ có công trình Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Phạm Thanh Bình, Một số vấn đề chung quanh việc tạm giữ, tạm giam, Nxb. Đồng Nai, 1997; v.v…

Ngoài ra một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề

câp đêń các biện pháp ngăn chặn như: Ths.Phạm Thanh Bình, Bắt - Biện pháp

ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật Số 3/1998; Nguyễn Văn Dũng, Biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự và những bất cập, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số 12/2002; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 7/2005; TS. Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề về biện pháp bảo lĩnh quy định trong BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao, Số 15/2006; TS.Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp , Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 21/2007; Nguyễn Đình Bình, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát. VKSND tối cao. Số 5/2008; TS. Trịnh Tiến Việt,

Pháp luật về biện pháp ngăn chặn bảo linh và hướng sửa đổi, bổ sung, Tạp chí

nghiên cứ u lâp pháp . Văn phòng Quốc hôị , Số 02/2010; Nguyễn Ngọc Ánh,

Một số vướng mắc bất cập khi áp dụng điều 92 BLTTHS, Tạp chí TAND. TAND tối cao, Số 8/2012; Phùng Văn Tài, Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật, Số 8/2012; Vũ Gia Lâm, Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 9/2012; v.v…

Qua nghiên cứu tác giả nhận thấy, hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập đến các BPNC có ý nghĩa là các biện pháp nói chung. Vì nhiều lý do

khác nhau, chỉ có một công trình nghiên cứu thật chuyện sâu về biện pháp bảo lĩnh. Để có nhận thức đúng hơn về biện pháp này trong mối liên hệ với

các BPNC khác . Như vây, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho

phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Biện pháp bảo lĩnh trong luật tố

tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan , cấp thiết, vừ a có tính lý luân ,

̀ a có tính thực tiên.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn muốn làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, phân tích các khía cạnh của BLTTHS Việt Nam hiện hành và BLTTHS của một số nước trên thế giới quy định về biện pháp bảo lĩnh, đồng thời nghiên cứu tình hình áp dụng biện pháp này trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, để đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự ở Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

̀ muc

đích nghiên cứ u nêu trê, nluân

văn có những nhệim vu ̣chủ yếu sau:

- Dưa

trên cơ sở kết quả tổng hơp

các quan điểm của các tác giả trong

nước về biên

pháp ngăn chăn

, luân

văn nghiên cứ u , làm rõ những vấn đề lý

luận về biên

pháp bảo linh.

- Phân tích , đánh giá các quy định của BLTTHS hiên

hành liên quan

đến biên

pháp bảo lin

h trong Luật TTHS.

- Nghiên cứ u, đánh giá thưc trong luâṭ TTHS ở nước ta.

tiên

áp dun

g biên

pháp ngăn chăn

bảo lĩnh

- Tìm ra những bất cập hạn chế để đưa ra những kiến nghị và giải pháp

hoàn thiện về pháp luật biện pháp bảo lĩnh trong luật TTHS Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận về biên TTHS Việt Nam.


pháp bảo lin


h trong luât

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quy định của một số nước trên thế giới và thực tiễn áp dụng để đưa ra những kiến nghị, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp bảo lĩnh trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau:

- Cơ sở lý luận về biên

pháp bảo lin

h trong luâṭ TTHS Việt Nam

- Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biên trong luâṭ TTHS Việt Nam.

pháp bảo linh

- Về thực trạng áp dun

g quy điṇ h của pháp luâṭ tố tun

g hình sự hiên

hành về biên

pháp bảo linh.

- Các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiên các quy điṇ h của pháp luât

tố tun

g hình sự hiên

hành về biên

pháp bảo linh.

5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác

- Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật.

Luân văn đư ợc thực hiện trên cơ sở quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết

của Đảng, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước về các BPNC.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã ̉ dun

g các phương pháp

nghiên cứu cụ thể và đ ặc thù của khoa h ọc xã hội như phương pháp phân

tích và t ổng hợp; phương pháp đối chiếu ; phương pháp diên

dic̣ h ; phương

pháp quy nạp ; phương pháp thống kê , điều tra xã h ội hoc

để tổng h ợp các

tri thứ c khoa hoc

và luân

chứ ng các vấn đề tương ứ ng đươc

nghiên cứ u

trong luân văn .

6. Những đóng góp của luận văn

6.1. Về mặt lý luận

- Luận văn đã góp phần làm rõ thêm nhiều vấn đề lý luận về biên bảo lĩnh trong Luâṭ TTHS Viêṭ Nam.


pháp

- Luận văn đã tìm hiểu, phân tích các quy định của một số nước trên thế giới về biện pháp bảo lĩnh, để từ đó kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của các nước nhằm tiếp tục phát triển các quy định của pháp luật trong nước về chế định này.

6.2. Về mặt thực tiễn

- Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và đánh

giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn áp dụng biên

pháp bảo lin

h trong Luâṭ TTHS

Việt Nam, từ đó tìm ra được những hạn chế bất cập về biêntrong luâṭ TTHS và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.

pháp bảo linh

- Luận văn đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao các

quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường biêntrong Luâṭ TTHS Viêṭ Nam.

pháp bảo linh

- Kết quả nghiên cứ u của luân

văn còn phục vụ cho viêc

trang bi ̣những

kiến thứ c chuyên sâu cho các cán bô ̣đang công tác taị các Cơ quan đi ều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vu ̣án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luâṭ.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương, như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về biên Luật tố tụng hình sự Việt Nam.

pháp bảo lĩnh trong

Chương 2: Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới.

Chương 3: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh và các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng trong tố tụng hình sự.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP BẢO LĨNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM


1.1. Khái niệm và ý nghĩa của biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Biện pháp bảo lĩnh là một trong sáu BPNC được pháp luật TTHS Việt Nam quy định. Do đó, muốn hiểu rõ bản chất pháp lý của biện pháp bảo lĩnh cần phải nghiên cứu biện pháp này trong mối liên hệ có tính hệ thống với các BPNC.

1.1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

Biện pháp cưỡng chế của Luật TTHS là những biện pháp được thực hiện bởi cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng nhất định áp dụng theo một trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử [35; 54]. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS, BPNC được xem như một chế định pháp lý quan trọng, bởi việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và quyền tự do cá nhân. Các BPNC không ngoài mục đích nào khác là tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án, phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội chuẩn bị thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện. Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm BPNC, cần được làm sáng tỏ;

Theo Điều 79 BLTTHS Việt Nam 2003, mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về BPNC, tuy nhiên cũng đã quy định một số nội dung trọng điểm áp dụng các BPNC:

Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 30/10/2023