Biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch - 15


nhanh với sự thay đổi nghề nghiệp, từ nông nghiệp sang dịch vụ du lịch. Đa số các hộ gia đình đã có sự chuẩn bị và chủ động tiếp nhận những thay đổi về sinh kế, việc làm và sự du nhập của văn hóa nước ngoài, do vậy không có sự biến đổi lớn về đời sống văn hóa và tạo ra những sự hụt hẫng, mất phương hướng trong hoạt động sinh kế mới của người dân. Người dân vừa biết lưu giữ các nghề, giá trị văn hóa và nghi lễ gắn với sinh kế truyền thống, nhưng vừa biết kết hợp gắn với các hoạt động sinh kế mới như hoạt động du lịch trải nghiệm nông nghiệp, du lịch nghỉ tại nhà dân (homestay), du lịch làng nghề, du lịch văn hóa lịch sử….Nhóm cư dân chuyển hẳn sang các ngành nghề mới như buôn bán, kinh doanh khách sạn, nhà hàng chiếm khoảng 10%. Hiện tượng trộm cắp, cờ bạc, ma túy khá thấp, tệ nạn mại dâm hầu như không có.

Bốn là, phát triển du lịch trong khu di sản cần tuân thủ các quy định về bảo tồn và nguyên tắc phát triển bền vững, trong đó kiểm soát sức tải (về môi trường và xã hội) là một trong những yêu cầu hàng đầu. So với các khu di sản thế giới khác ở Việt Nam và trên thế giới, QTDT Tràng An có tốc độ phát triển du lịch khá nhanh, bình quân giai đoạn 2010-2019 đạt trên 11%/năm đã tạo ra nhiều áp lực đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội do sự phát triển các cơ sở hạ tầng (đường xá, bến bãi..), cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ khách du lịch (nhà hàng, khách sạn, khu nghỉ dưỡng…). Ngoài ra, sự gia tăng và tập trung đông lượng khách tại một thời điểm cũng gây ra những tác động khác nhau phụ thuộc vào sức tải về môi trường và xã hội. Tuy nhiên mức độ tác động này còn phục thuộc vào sức đề kháng và độ đàn hồi Theo Arthur Pedersen, “Sức đề kháng là khả năng hứng chịu sử dụng mà không bị xáo trộn, còn độ đàn hồi là khả năng trở lại tình trạng không bị sáo trộn ban đầu sau khi bị tác động” [54, tr.34]. Thực tế cho thấy, sức đề kháng là thước đo khả năng của các môi trường khác nhau và các nền văn hóa khác nhau chống lại sự thay đổi hay những yếu tố tiêu cực tác động từ hoạt động du lịch. Các cộng đồng dân cư ở các khu vực di sản khác nhau có khả năng ứng phó và chống lại sự thay đổi khác nhau tùy theo “sức đề kháng” về văn hóa của họ. QTDT Tràng An hiện có 06 khu du lịch lớn đang hoạt động phục vụ khách du lịch. Các chương trình du lịch được sắp xếp và tổ chức theo một lộ trình và điểm dừng tham quan cố định. Nên những tác động thường chỉ


giới hạn ở những tuyến điểm này, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm khách du lịch, các tua tuyến du lịch có xu hướng mở rộng theo thời gian. Thị trường khách du lịch, nhất là khách trong nước và Châu Á thường tập trung đi đến thăm di sản thế giới Tràng An vào những dịp nghỉ lễ, tạo nên sự tắc nghẽn, quá tải cục bộ ở các khu vực bến thuyền, khu đón tiếp, trưng bày, điểm chụp ảnh (check-in) và bán hàng. Sự đông đúc cũng gây ra tác động tiêu cực khi nó trái với mong muốn của du khách. Khi lượng người quá lớn ở một vài điểm trong khu di sản chắc chắn sẽ làm giảm mức độ thụ hưởng và cơ hội được thư thả một mình. Vấn đề sức tải về môi trường và xã hội cũng đang được tỉnh Ninh Bình quan tâm. Sở Du lịch Ninh Bình đã phối hợp với Khoa du lịch và khách sạn Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội tiến hành nghiên cứu đánh giá sức tải khách du lịch để có giải pháp quản lý và khai thác phù hợp tránh tình trạng quá tải khách gây ảnh hưởng xấu tới môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, nhất là khả năng chịu tải về văn hóa của người dân địa phương.

Năm là, phát triển du lịch có tác động như thế nào đối với cư dân tại QTDT Tràng An, tích cực hay tiêu cực, việc đánh giá này thường phụ thuộc vào mức độ tham gia và hưởng lợi của các cộng đồng dân cư địa phương. Một số nghiên cứu gần đây ở Tràng An phát hiện cư dân thường ủng hộ du lịch nếu gia đình họ được hưởng lợi, có việc làm, thu nhập ổn định cho bản thân và gia đình. Đồng thời cũng phát hiện những lo ngại của người dân địa phương về những tác động của du lịch tới giá bất động sản, giá cả hàng hóa cao, thay đổi lối sống, phong tục tập quán, sự suy giảm các giá trị văn hóa truyền thống, gia tăng các tệ nạn xã hội. Sự chấp nhận, ủng hộ của cộng đồng đối với du lịch phụ thuộc nhiều vào mức độ đáp ứng các nhu cầu và ước vọng của cư dân địa phương trong khu vực di sản và sự hòa nhập của họ vào ngành du lịch. Tính tiêu cực có thể được giảm thiểu nếu cư dân địa phương có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh du lịch, có vai trò trong việc ra quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và các vấn đề liên quan đến khách du lịch (số lượng, tần suất, mức phí tham quan...). Khi cộng đồng dân cư địa phương có quyền tự quản hoặc quyền tham gia quản lý các nguồn lực tự nhiên, đất đai của họ và được khuyến khích tham gia vào hoạt động du lịch, chắc chắn sẽ thúc đẩy các giá trị tích cực. Khả năng


tiếp cận các khu, điểm du lịch trong khu di sản và những lợi ích về kinh tế, việc làm, gia tăng thu nhập cho kinh tế cộng đồng sẽ tạo thêm các yếu tố thuyết phục sự chấp nhận và đồng hành của cộng đồng dân cư đối với phát triển du lịch bền vững.

Sáu là, xung đột nảy sinh khi các lợi ích kinh tế của các bên, nhất là của cộng đồng được phân chia không đồng đều, sự chênh lệch lớn về mức độ thu nhập, giàu có. Vấn đề đặt ra là phải đảm bảo lợi ích kinh tế của các bên có liên quan, quyền được thụ hưởng và sử dụng các dịch vụ, hàng hóa của cộng đồng địa phương bằng chính sách ưu đãi, giảm giá riêng. Cách thức tổ chức các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa lịch sử, du lịch dựa vào cộng đồng, lấy người dân địa phương làm trung tâm tại QTDT Tràng An đã tạo ra gần 7000 việc làm trực tiếp và chục ngàn việc làm gián tiếp cho người dân địa phương với thu nhập khá ổn định so với các khu vực khác. Sự đảm bảo về việc làm và thu nhập ổn định cho cư dân tại QTDT Tràng An đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân địa phương và giảm thiểu các xung đột trong quá trình phát triển KTXH nói chung và du lịch nói riêng, tạo tiền đề để phát triển văn hóa sinh kế bền vững.

Nhìn chung, vấn đề cân bằng, hài hòa lợi ích giữa các bên có liên quan trong khu di sản QTDT Tràng An được các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp chú trọng và thực hiện khá tốt, góp phần giữ gìn, bảo tồn di sản thế giới QTDT Tràng An một cách bền vững, gắn kết người dân với di sản, tạo thế chủ động cho người dân địa phương trước những biến đổi về nghề nghiệp, sinh kế và các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương cũng như đảm bảo phát triển văn hóa sinh kế bền vững của cộng đồng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 213 trang tài liệu này.

Tiểu kết chương 3

Quần thể danh thắng Tràng An là một vùng đất cổ, giàu tiềm năng, nên thơ, lại nằm ở vị trí giao thông thuận lợi, nên từ ngàn xưa đã là nơi giao thoa của các vùng văn hóa lớn của đất nước. Cư dân ở Tràng An vừa sáng tạo, vừa tiếp thu những nét văn hóa tinh hoa của các vùng, miền khác, tạo dựng sắc thái văn hóa Ninh Bình phong phú, đa dạng và có những nét đặc sắc riêng. Quá trình phát triển du lịch, dịch vụ, đô thị hóa tác động rất mạnh đến sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và biến đổi một số phong tục tập quán trong lao động sản xuất và đời

Biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại Quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du lịch - 15


sống sinh hoạt. Trong bối cảnh ấy, người dân ở Tràng An đang tìm cách gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của cha ông, gắn kết, giúp đỡ nhau trong đời sống và lao động sản xuất, tham gia hoạt động của tập thể, của dòng họ và hàng xóm, láng giềng.

Việc triển khai thực hiện các dự án phát triển du lịch và sự nổi lên gần đây của QTDT Tràng An như là một điểm đến du lịch hàng đầu Việt Nam và khu vực là nhân tố trực tiếp tác động làm thay đổi các nguồn lực sinh kế của cư dân Tràng An đã cho thấy những một số vấn đề nổi bật: Nguồn lực tự nhiên chủ yếu là vị trí địa lý, cảnh quan môi trường sinh thái, hệ thống núi non, hang động là yếu tố quan trọng trong phát triển sinh kế đa dạng, bền vững của người dân. Nguồn lực văn hóa xã hội được xem xét trên các khía cạnh như các di sản vật thể, di tích lịch sử, các môi quan hệ gia đình, làng xóm, phong tục tập quán và văn hóa địa phương, các thiết chế cộng đồng, khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin của người dân đối với sản xuất và đời sống.

Sự thay đổi các nguồn lực sinh kế dẫn đến sự thay đổi hoạt động sinh kế, sự biến đổi các giá trị văn hóa sinh kế như thay đổi về hệ thống giá trị định hướng hay mục tiêu sinh kế, thay đổi các giá trị mang tính chuẩn mực trong hoạt động sinh kế và cuối cùng là biến đổi giá trị văn hóa thể hiện trong hành vi, phương thức sinh kế của cư dân địa phương. Việc nghiên cứu SBĐVHSK trong quá trình phát triển du lịch hiện nay là rất cần thiết về cả lý luận và thực tiễn để giúp cho các nhà quản lý và chính quyền địa phương có những giải pháp, chiến lược phù hợp trong việc vừa bảo tồn di sản vừa phát triển du lịch bền vững trên nguyên tắc tôn trọng, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa sinh kế truyền thống góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.


Chương 4

NHỮNG YẾU TỐ VÀ XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN TẠI QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY


4.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SINH KẾ CỦA CƯ DÂN TẠI QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN

4.1.1. Những yếu tố tác động

4.1.1.1. Yếu tố gián tiếp

a. Sự phát triển của kinh tế thị trường: Kinh tế thị trường là một xu thế tất yếu của sự phát triển trên thế giới. Cùng với kinh tế thị trường (KTTT) hiện đại là quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhưng nó cũng phải đối mặt với nhiều thách thức tiềm ẩn. Việt Nam bắt đầu mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới từ năm 1986. Trong hơn 30 năm qua, nhờ chủ trương đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đã tập trung xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã đem lại những thành tựu to lớn quan trọng bước đầu.

Trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển KTXH 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020 tại Đại hội XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá, tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2010 đạt 7%, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các nước đang phát triển có thu nhập trung bình và hoàn thành nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Giai đoạn từ 2010 đến 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, chất lượng tăng trưởng tăng lên. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng bình quân 5 năm đạt trên 5,9%. Quy mô và tiềm lực kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt 193,4 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD. Trong Báo cáo tình hình KTXH năm 2019 và kế hoạch phát triển KTXH năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: Tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra trong khi vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát tốt và các cân đối


lớn của nền kinh tế được củng cố, mở rộng. Đời sống của nhân dân trên mọi miền đất nước đều chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 6.8%, thuộc nhóm các nước tăng trưởng hàng đầu khu vực và thế giới. Cơ cấu lại nền kinh tế thực chất hơn, khu vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng cao, khách quốc tế ước đạt 18 triệu lượt, tăng 16,1%; đã tạo thêm 1,6 triệu việc làm, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 3,73 - 4,23%. [18].

Sau 25 năm tái lập tỉnh, thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, Nhà nước, kinh tế Ninh Bình có bước tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt 11,7%/năm. So với năm 2010, quy mô GDP gấp 2,3 lần; tỉ trọng ngành nông, lâm, thủy sản giảm xuống còn 12,5%; công nghiệp, xây dựng tăng lên 48,6%, dịch vụ du lịch tăng lên 38,9%. Sự phát triển KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình kinh tế chính trị ổn định đã tạo điều kiện đưa các dòng khách đến Ninh Bình ngày càng tăng, đưa du lịch Ninh Bình vào tốp các tỉnh có du lịch phát triển, bứt phá vượt nhiều tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng. Đến năm 2019, tổng số lượt khách du lịch đến các khu, điểm du lịch của tỉnh Ninh Bình đạt 7,6 triệu lượt (tăng gấp 2,5 lần so với năm 2010) trong đó khách quốc tế đạt 960 nghìn lượt, doanh thu du lịch đạt 3.600 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho gần 22.600 lao động/năm [65].

Những thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua đã chứng minh rằng, phát triển KTTT định hướng XHCN là mô hình và là con đường vừa phát triển kinh tế, vừa thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội phù hợp với Việt Nam, trong đó có tỉnh Ninh Bình, nên đem lại hiệu quả thiết thực. Quá trình đẩy mạnh việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN, tạo điều kiện cho việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để nhanh chóng đưa Việt Nam, về cơ bản, trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như mục tiêu của Đảng đã đề ra đã có những tác động mạnh mẽ đến sự phát triển du lịch, tạo thêm nhiều việc làm và chuyển đổi sinh kế theo hướng tích cực cho người dân trên cả nước nói chung và trong vùng di sản QTDT Tràng An nói riêng.


b. Sự phát triển của khoa học công nghệ: Tại Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2016 (diễn ra từ 20-23/01/2016) tổ chức tại Davos (Thụy Sĩ), một trong những nội dung quan trọng chính được đề cập là cuộc cách mạng lần thứ tư (cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0) và tác động có thể có của nó đến sự phát triển của loài người. Cuộc CMCN 4.0 mang đầy đủ các đặc trưng của các cuộc CMCN trước, khi nó được dựa trên những phát minh về tư liệu sản xuất làm thay đổi căn bản cách thức con người tác động vào đối tượng sản suất và làm thay đổi căn bản nền sản xuất xã hội, nhưng cũng có những đặc tính riêng. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng CMCN 4.0 là một loại công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, làm thay đổi căn bản giữa đời sống thế giới thực, ảo và sinh vật.

Cuộc CMCN 4.0 bắt đầu ngay trong khi cuộc CMCN 3.0 chưa kết thúc. Đây là điều khác biệt so với các cuộc CMCN lần trước. Mặc dù chưa có những đánh giá tác động một cách hoàn chỉnh, tuy nhiên, CMCN 4.0 sẽ làm biến đổi nhiều mô hình sản xuất và kinh doanh. Nhiều mô hình, phương thức kinh doanh mới ra đời và làm giảm một số lợi thế của phương thức kinh doanh hiện hành. Sự ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 rất sâu rộng, với tốc độ đột phá chưa có tiền lệ bởi sự tương tác, tích hợp của nhiều loại công nghệ tiên tiến. Điều này sẽ tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ, căn bản của toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị. Sự tác động trực diện, mạnh mẽ nhất là đến chuỗi sản xuất công nghiệp kéo theo sự biến đổi về phương thức kiếm sống nói chung.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ có những tác động không nhỏ trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Với sự mở rộng ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin, điều khiển, tự động hóa. Các hệ thống robot có trí thông minh nhân tạo sẽ thay thế con người trong nhiều công đoạn hoặc trong toàn bộ dây chuyền sản xuất nhất là trong những ngành sử dụng nhiều lao động. Đây là một trong những thách thức lớn nhất, bởi chuyển dịch cơ cấu lao động trong gần 20 năm qua của Việt Nam rất chậm và chậm hơn nhiều nếu so với chuyển dịch cơ cấu GDP.

c. Sự tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế: Trong giai đoạn hiện nay muốn phát triển bền vững, thì ngoài yếu tố nội lực mang tính chất quyết định, phải đặc


biệt quan tâm đến các nhân tố ngoại lực. Giao lưu, hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi dân tộc. Thông qua hợp tác, giao lưu quốc tế, mỗi dân tộc sẽ tiếp thu và nắm bắt được những thành tựu văn minh, tinh hoa nhân loại trong mọi lĩnh vực; là cơ hội để thêm bạn, bớt thù, tăng thêm đối tác và khả năng hiểu biết lẫn nhau, chung sức giải quyết hiệu quả các vấn đề mang tính toàn cầu... Bên cạnh đó, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, các dân tộc có điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mình, đánh giá đúng mình và nhận thức được thế giới xung quanh để có cách làm và bước đi phù hợp. Giao lưu, hợp tác quốc tế nhằm tạo môi trường ổn định để phát triển; có cơ hội để phát huy những tiềm năng lợi thế; là điều kiện để tiếp thu, học hỏi những tinh hoa, tiến bộ của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển của mỗi dân tộc.

Mở rộng, giao lưu hợp tác quốc tế không chỉ thúc đẩy phát triển mà còn là điều kiện để củng cố, giữ vững độc lập dân tộc mỗi quốc gia. Hợp tác quốc tế cùng đấu tranh cho một thế giới hòa bình, một trật tự kinh tế thế giới bình đẳng, giải quyết các vấn đề toàn cầu một cách hiệu quả... đã bao hàm việc củng cố và giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết của các quốc gia dân tộc. Hợp tác, giao lưu quốc tế chân chính và hiệu quả chỉ hình thành và có được trên nền độc lập, tự chủ thực sự của các quốc gia. Đẩy mạnh giao lưu hợp tác quốc tế là để đón nhận những tinh hoa, thành quả của nhân loại, phục vụ sự phát triển của mỗi quốc gia và địa phương.

Như vậy, sự tồn tại và phát triển của một quốc gia gắn liền với quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế. Giữ vững độc lập dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, khép kín. Cách tốt nhất là giải quyết hài hòa lợi ích của dân tộc mình với lợi ích của các dân tộc khác và chung hơn cả là lợi ích của toàn nhân loại. Chính vì vậy mà giao lưu hợp tác quốc tế có tính quy luật tất yếu trong sự phát triển của mỗi quốc gia và dân tộc. Sự biến đổi về văn hóa sinh kế bên cạnh những yếu tố hình thành từ điều kiện tự nhiên, xã hội và cội nguồn của cộng đồng, cũng có những yếu tố xuất hiện trên cơ sở tiếp thu, học hỏi từ dân tộc khác. Chính sự giao lưu, hợp tác quốc tế giữa các dân tộc làm cho nhiều giá trị của dân tộc được khẳng định, đồng thời qua đó học hỏi, tiếp thu, bổ sung những giá trị mới từ bên ngoài, làm cho các hoạt động sinh kế trở nên phong phú, đa dạng hơn. Điều này được

Xem tất cả 213 trang.

Ngày đăng: 02/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí