Đối với nhiều dân tộc ở nước ta hiện nay, đi làm thuê đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong phát triển kinh tế. Việc làm thuê là hệ quả tất yếu trong điều kiện thiếu việc làm và nhu cầu nâng cao thu nhập của người dân. Từ bối cảnh trên, khi nhìn vào thực tế của người Tày ở xã Quang Lang, với bình quân ruộng nước mỗi hộ khoảng vài sào, trong khi nương rẫy không đáng kể nên hầu hết các hộ gia đình phải tìm kiếm nguồn thu nhập bằng cách làm thuê dưới nhiều hình thức như làm công nhân trong các nhà máy, khu công nghiệp, làm phu hồ, bốc vác, công nhân, xe ôm, thợ mộc… ở ngay thị trấn Đồng Mỏ và các tỉnh khác như Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Thái Nguyên... Hoạt động buôn bán, dịch vụ của người Tày đã xuất hiện nhưng còn nhỏ lẻ, manh mún và chủ yếu thuộc về phần đông hộ gia đình người Tày có nguồn vốn lớn, có kinh nghiệm trong kinh doanh. Về cơ bản, những hoạt động này đã phần nào giải quyết được tình trạng dư thừa lao động, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong xã. Tuy vậy, các nguồn sinh kế ấy thường không ổn định và dự báo cũng đem lại những rủi ro và thách thức phải đối diện.
- Đặc điểm xã hội
Người Tày sống định cư theo bản làng từ rất lâu đời và cư trú theo lối mật tập. Nằm trong cảnh quan cư trú vùng thung lũng nên làng bản của người Tày thường được tạo lập trong các thung lũng lòng chảo hoặc men theo các triền đồi, mỗi bản có địa vực cư trú, đất đai canh tác riêng. Gia đình của người Tày thuộc loại gia đình nhỏ, phụ hệ. Người đàn ông thường chiếm vị trí trụ cột và có vai trò quyết định các vấn đề về tổ chức sản xuất, các công việc trọng đại và thừa kế tài sản. Mối quan hệ vợ chồng trong gia đình người Tày hiện nay đã có sự bình đẳng hơn như người vợ ngày càng tham gia nhiều vào công tác xã hội hay các hoạt động tìm kiếm việc làm, tăng thêm thu nhập cho gia đình thông qua các hoạt động buôn bán, làm thuê. Bên cạnh đó, những điều cấm kỵ giữa bố chồng, anh chồng với con dâu, em dâu cũng đã được giản lược khiến cho quan hệ trong gia đình trở nên thân thiết hơn. Các hoạt
động đoàn thể, đặc biệt là của Chi hội Phụ nữ đã góp phần tích cực trong việc hòa giải và tuyên truyền nếp sống gia đình văn hóa tới mọi nhà trong thôn.
Dòng họ của người Tày ở xã Quang Lang trước đây chủ yếu là họ Vi, và họ Lô. Hiện nay còn có thêm một số họ mới như Hoàng, Nông, Trương, Lưu, Lương... Từ trước tới nay, đồng bào vẫn duy trì tập quán tương trợ trong cộng đồng. Trong đó, những người trong dòng họ thường đóng vai trò thiết yếu trong sự tương trợ cả về vật chất và tinh thần trong các hoạt động cưới xin, tang ma, làm nhà và các dịp lễ tết.
- Đặc điểm văn hóa
Ngôi nhà truyền thống của người Tày ở xã Quang Lang là nhà trì nh tường và nhà sàn. Nhà trình tường trước đây với nguyên liệu chủ yếu bằng đất nên thường không giữ được vệ sinh, nhất là trong mùa mưa lũ. Từ những năm 1980 trở lại đây, số lượng các ngôi nhà truyền thống ngày càng vắng bóng do thiếu nguyên liệu làm nhà và không còn phù hợp với thị hiếu của người dân. Thay vào đó là những ngôi nhà xây cấp 4 lợp ngói hoặc pro-xi- măng.Những năm gần đây, ở cả hai thôn Khun Phang và Làng Đăng có khoảng 35 ngôi nhà 2-3 tầng mọc lên. Đây chủ yếu là nhà của những người ở thị trấn mới về mua đất, dựng nhà sinh sống tại xã và một số gia đình trong thôn làm kinh doanh, buôn bán hoặc công chức nhà nước.
Trang phục cổ truyền của đồng bào là áo dài vải chàm, cài cúc bên phải, thắt lưng, dùng đồ nữ trang bằng bạc. Do bất tiện trong quá trình lao động sản xuất nên đã từ lâu, họ mặc quần áo giống người Kinh. Cũng giống như nhiều vùng Tày khác, bộ trang phục truyền thống của người Tày ở đây chỉ được mặc vào những dịp lễ hội, văn nghệ và được các bà Then mặc khi đi hành nghề (Phạm Thị Thu Hà 2008). Thanh niên người Tày ở đây có xu hướng ăn mặc, làm tóc theo các mốt thời trang thịnh hành.
Với bản sắc là cư dân nông nghiệp, người Tày có tập quán ăn cơm. Lương thực gồm có gạo nếp, gạo tẻ, ngô, khoai, sắn... Thực phẩm dùng trong
Có thể bạn quan tâm!
- Biến đổi quan hệ dòng họ của người Tày ở xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn từ năm 1986 đến nay - 2
- Biến đổi quan hệ dòng họ của người Tày ở xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn từ năm 1986 đến nay - 3
- Khái Quát Về Người Tày Và Địa Bàn Nghiên Cứu
- Số Hộ Gia Đình Thuộc Các Dòng Họ Trên Địa Bàn Nghiên Cứu
- Vai Trò Của Trưởng Họ Và Những Người Có Uy Tín Trong Dòng Họ
- Biến Đổi Quan Hệ Dòng Họ Của Người Tày Trong Tín Ngưỡng Thờ Cúng Tổ Tiên
Xem toàn bộ 139 trang tài liệu này.
bữa ăn hàng ngày chủ yếu là rau xanh tự trồng hay thu hái trên rừng và món ăn thường xào nhiều mỡ. Người phụ nữ Tày ở xã Quang Lang rất đảm đang trong công việc nội trợ, họ biết làm nhiều loại bánh như bánh chưng Tày, bánh gio, bánh dợm, bánh ngải... Trong sinh hoạt hàng ngày cũng như vào dịp lễ tết, đồng bào thường uống rượu. Rượu của người Tày được nấu từ gạo, sắn, ngô, họ tự làm men bằng lá cây rừng nên thường được gọi là rượu men lá. Hiện nay, men lá ít được sử dụng mà chủ yếu dùng men mua tại chợ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ngày nay, người Tày ở đây hàng ngày mua thức ăn ở chợ, chế biến món ăn theo cách thức giống của người Kinh. Đồng bào vẫn duy trì một số món ăn truyền thống như khau nhục nhưng đã có sự cải biến về gia vị.
Ngôn ngữ là tiêu chí quan trọng để phân biệt các tộc người với nhau. Qua điều tra thực địa tại xã Quang Lang cho thấy, xu hướng chung ở đây hiện nay là tiếng phổ thông (tiếng Việt) đang được sử dụng ngày càng phổ biến ở cộng đồng người Tày. Đa số người dânlớn tuổi nói thạo cả tiếng Tày và tiếng Việt trong mọi cảnh huống. Ngoài việc sử dụng song ngữ (Tày - Việt) thì hiện tượng đa ngữ (Kinh - Tày - Nùng) của người Tày ở đây cũng rất phổ biến như nhiều vùng Tày khác (Nguyễn Thị Thanh Bình 2013). Tuy nhiên, do quá trình tiếp xúc, giao lưu mạnh mẽ với người Kinh và văn hoá phổ thông, nhiều người trẻ tuổi ở đây không còn nói thạo tiếng Tày nữa.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức thờ cúng quan trọng nhất của người Tày ở xã Quang Lang. Những gia đình nào có người đi làm Mo, Then thì còn thờ thêm tổ sư của nghề cúng bái. Ngoài ra, đồng bào Tày còn thờ Bà mụ trong buồng ngủ để bảo vệ trẻ em, thờ Táo quân, thờ thần Thổ công, thổ địa... Đây là những vị thần có nhiệm vụ bảo vệ bản làng. Miếu thờ thổ công thường là một ngôi nhà nhỏ, sơ sài, được xây dựng ở đầu làng, nơi có nhiều người qua lại. Vào dịp tết Nguyên Đán, các gia đình trong bản thường mang hương, hoa, lễ vật đến cúng thổ thần.
1.4 Khái quát về điểm nghiên cứu chính
1.4.1 Thôn Khun Phang, xã Quang Lang.
Điểm nghiên cứu thứ nhất được lựa chọn là thôn Khun Phang. Khun trong tiếng Tày có nghĩa là thung lũng, khe; Phang nói lái của từ pheo, có nghĩa là tre1. Khun Phang là vùng thung lũng trồng nhiều tre.
Khung Phang là thôn nằm trên đường quốc lộ 1A, liền kề thị trấn Đồng Mỏ, gần chợ, nhà ga xe lửa, thuận lợi cho giao lưu, buôn bán và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thôn có tổng số 83 hộ dân, trong đó người Tày 49 hộ (chiếm59%), còn lại là người Nùng và người Kinh. Thôn có các dòng họ Tày như như: Lô (23 hộ), Vi (22 hộ), Hoàng (2 hộ), Lương (2 hộ). Trong đó, dòng họ Vi, Lô là hai họ được xem có công khai phá và đặt nền móng xây dựng thôn.
Hoạt động kinh tế của người Tày thôn Khun Phang trước khi có đường quốc lộ 1A Hà Nội – Lạng Sơn chạy qua thôn chủ yếu sản xuất nông nghiệp: trồng lúa nước, ngô, khoai, sắn, kết hợp với trồng cây ăn quả, trồng rừng… Kinh tế của thôn chỉ thực sự phát triển khi có đường quốc lộ 1A chạy qua. Ngoài hoạt động nông nghiệp, đã có khoảng hơn 10 hộ chuyển sang hoạt động kinh doanh buôn bán ngay cạnh đường quốc lộ, một vài hộ gia đình làm ăn buôn bán nhỏ lẻ ở các chợ trong vùng. Đồng thời, do gần thị trấn, cách trung tâm huyện hơn 1km nên nhiều cán bộ, công nhân viên chức về định cư ở đây hơn so với thôn khác.
Bên cạnh đó, đến nay nguồn thu nhập của hộ gia đình từ hoạt động làm thuê cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu thu nhập của hộ. Hầu như trong thôn gia đình nào cũng có thành viên đi làm công nhân, thợ xây, xe ôm…
Theo báo cáo tổng kết năm 2015của thôn Khun Phang, tỷ lệ hộ giàu chiếm 5%. Đây là những hộ có ô tô hoặc nhà hàng, có thu nhập cao. Tỷ lệ hộ khá chiếm khoảng 20%, chủ yếu là các hộ cán bộ, viên chức. Còn lại các hộ
1Tên gọi “Khun Phang” theo cách giải thích của người Tày.
trung bình, cận nghèo và nghèo. Đây là những hộ thuần nông, kết hợp với đi làm thuê.
1.4.2 Thôn Làng Đăng, xã Quang Lang.
Điểm nghiên cứu thứ hai là thôn Làng Đăng. Thôn có địa bàn rộng, trải dài khoảng hơn 2 km, dân cư sống tập trung thành 6 cụm, có tuyến đường quốc lộ 1A chạy qua thuận lợi cho việc giao lưu, buôn bán. Tuy nhiên, do đặc điểm cư trú và địa hình nên thôn Làng Đăng không có nhiều hộ kinh doanh buôn bán cạnh quốc lộ 1A như thôn Khun Phang.
Làng Đăng có tổng 123 hộ, trong đó 118 hộ là người Tày (chiếm 96%), còn lại 5 hộ là người Kinh. Với các dòng họ như: Vi (110 hộ), Hoàng (5 hộ), Lý (1 hộ), Lương (1 hộ), Trịnh (1 hộ). Dòng họ Vi là họ đầu tiên đến khai hoang, lập nghiệp tại thôn.
Hoạt động kinh tế thôn Làng Đăng chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi) chiếm 95% dân số của toàn thôn. Ngoài canh tác 2 vụ lúa trong năm (45 ha), người dân còn trồng thêm ngô (15 ha), khoai tây (5 ha) và ớt (2 ha)1. Khoai tây và ớt là hai sản phẩm được xuất sang Trung Quốc, nên đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Đồng thời, các hộ gia đình còn trồng thêm cây ăn quả và tham gia trồng rừng theo dự án rừng Việt – Đức để tăng thêm thu nhập.
Tóm lại, điểm chung ở cả hai điểm nghiên cứu là người Tày cư trú với tỷ lệ dân số Tày cao. Mỗi thôn đều có dòng họ lớn, cư trú lâu đời. Trong từng thôn, mặc dù có các dòng họ khác nhau, nhưng có đủ các mối quan hệ thân tộc, thông gia giữa gia đình, họ tộc với nhau. Điều này đã tạo nên một mạng lưới xã hội quan trọng giúp phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên, thôn Khun Phang có điều kiện vị trí địa lý và giao thông thuận lợi hơn nên đã nhanh chóng thu hút nhiều người dân từ nơi khác về sinh sống, lập nghiệp. Đồng thời, hoạt động kinh doanh, buôn bán dịch vụ…mở rộng hơn nên kinh
1Báo cáo Tổng kết cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư của Ban công tác mặt trận thôn Làng Đăng năm 2015.
tế phát triển hơn thôn Làng Đăng. Ngược lại, Làng Đăng chủ yếu là người Tày bản địa, ít có sự nhập cư của người dân từ nơi khác đến, các hộ gia đình chủ yếu làm nông nghiệp. Sự tương đồng và khác biệt của hai thôn cho phép đánh giá, so sánh sự phát triển dòng họ và biến đổi quan hệ dòng họ hiện nay của người Tày.
Tiểu kết chương 1
Dân tộc Tày là một trong 54 dân tộc sinh sống tại Việt Nam, thuộcnhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Ngoài tên gọi chung là “Tày”, một số nơi người họ còn có tên tự gọi là “Thổ”, có nghĩa là thổ dân hay người bản địa.Người Tày có lịch sử cư trú ở nước ta từ lâu đời, với các giá trị văn hóa độc đáo, phong tục tập quán mang đậm bản sắc dân tộc. Dòng họ là một giá trị văn hóa nổi bật của tộc người này.
Qua quá trình di cư và tụ cư của dòng họ người Tày Quang Lang cho ta thấy được sự đa dạng về nguồn gốc tộc người. Công “khai sơn phá thạch” đầu tiên phải kể đến hai dòng họ Lô và Vi. Đây cũng là hai dòng họ lớn, có lịch sử cư trú “bền vững” trên địa bàn xã Quang Lang. Ngoài ra, hiện nay trên địa bàn có rất nhiều dòng họ Tày khác về ở rể, mua đất sinh sống lập nghiệpnhư: Hoàng, Trịnh, Lương, Lý.
Để làm rõ được biến đổi quan hệ dòng họ của người Tày, luận văn sử dụnglý thuyết vốn xã hội như một khung phân tích để lý giải và diễn giải vấn đề nghiên cứu. Đồng thời, từ đó có thể đưa ra được một cái nhìn toàn diện, tổng thể và chân thực hơn về quan hệ dòng họ trong mọi mặt đời sống của người Tày.
Chương 2: Dòng họ của người Tày ở xã Quang Lang
2.1. Quan niệm về dòng họ của người Tày.
“Người có tổ tiên, như cây có gốc rễ. Tổ tiên gây dựng, tu nhân tích đức nhiều đời dòng họ mới phồn thịnh, con cháu mới được vẻ vang”1. Đây chính là quan niệm, cũng là ý thức của mỗi người về tổ tiên chung, những người mà họ có bổn phận cùng thờ cúng và tin rằng tổ tiên sẽ luôn ban phúc, chở che đem đến sự phát triển phồn thịnh. Từ quan niệm đó, dòng họ luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống người Tày. Mọi giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội đều mang đậm dấu ấn dòng họ.
Người Tày quan niệm, dòng họ là toàn thể những người cùng họ có chung một huyết thống (pỉ nọong lượt lài) và được sinh ra từ một ông tổ (pủ chỏ). Mỗi họ chia ra thành nhiều chi, mỗi chi lại được chia ra thành từng cành, nhánh. Các gia đình trong xóm dù là gia đình lớn, hay gia đình nhỏ đều thuộc về một dòng họ nhất định.
Tổ chức dòng họ của người Tày được mở rộng đến chín đời. Với họ, dù cư trú ở xa hay gần nhưng có quan hệ trong chín đời vẫn là anh em:“Họ hàng xa, nhưng trong vòng chín đời vẫn là anh em” (Ông Lô Đức Tr, 64 tuổi). Con cháu trong dòng họ phải có trách nhiệm thờ cúng, làm giỗ ông bà tổ tiên trong vòng 9 đời, những người mất lâu thì tổ chức giỗ nhỏ trong gia đình, những người mới mất tổ chức giỗ lớn trong cả dòng họ. Khác với một số dân tộc khác, người Tày Quang Lang không nhận anh em họ hàng qua tên họ và cách thờ cúng.
Trong dòng họ người Tày truyền thống không có từ đường, nhà thờ họ, ruộng hương hỏa và những buổi sinh hoạt dòng họ như ở người Kinh. Với người Tày Quang Lang, nhà trưởng họ sẽ là “nhà gốc” thờ họ, anh em luôn tìm lại nhà nhau khi có công có việc cùng ngồi uống chén rượu nhạt, bàn công chuyện họ hàng. Tuy nhiên, hiện nay trong bối cảnh đổi mới, giao lưu
1Phả ký dòng họ Vi thôn Làng Đăng.