Những Hạn Chế Về Mặt Pháp Luật Và Nguyên Nhân Của Khó Khăn Khi Áp Dụng Quy Định Về Bị Hại

cáo L gây thương tích cho bị hại D với tỷ lệ thương tật dưới 11% nhưng thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Bùi Đức L bị xét xử về tội “Cố ý gây thương tích”. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Bùi Đức L kháng cáo bản án sơ thẩm. Ngày 07/11/2018, bị hại rút yêu cầu khởi tố. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 03/2019/HSPT ngày 15/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ đình chỉ xét xử phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo [14]. Hoặc tương tự cũng trường hợp bị hại rút yêu cầu khởi tố tại cấp phúc thẩm thì tại Bản án hình sự phúc thẩm số 43/2019/HSPT ngày 29/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, miễn hình phạt đối với các bị cáo [15]. Cả hai bản án trên đều bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy theo thủ tục giám đốc thẩm để xét xử phúc thẩm lại theo hướng hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án [34, 35].

Học viên đồng ý với cách xử lý của hai quyết định giám đốc thẩm nêu trên vì việc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt đối với bị cáo khi người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bỡi lẽ, khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ”. Tại Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trường hợp người bị hại rút yêu cầu khởi tố ở cấp phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phải hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong vụ án này, lẽ ra TAND thành phố Cần Thơ phải căn cứ khoản 2 Điều 155, điểm d khoản 1 Điều 355, Điều 359 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hủy phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự và đình chỉ vụ án đối với bị cáo. Việc Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, miễn trách nhiệm hình sự/ miễn hình phạt đối với bị cáo là có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị kết án. Vướng mắc trên là do các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự chưa đầy đủ về trường hợp rút yêu cầu khởi tố ở cấp phúc thẩm nên thực tế và lý luận về giải quyết vụ án khi

người bị hại rút yêu cầu khởi tố gặp vướng mắc. Chính vì vậy, hoàn thiện quy định pháp luật về rút yêu cầu khởi tố ở cấp phúc thẩm là cần thiết.

Về trường hợp xác định tuổi bị hại:

Tại Đồng Nai chưa phát hiện trường hợp vướng mắc khi xác định tuổi bị hại làm cơ sở cho việc xác định tội danh và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, tại tỉnh Bình Dương có xảy ra sự khác nhau giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc xác định tuổi bị hại dẫn đến Tòa án xét xử khác với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Chẳng hạn tại Cáo trạng số 255/CT-VKS-TA ngày 10/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Đào Chí H về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015 [18]. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 309/2019/HSST ngày 19/11/2019, Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương tuyên bố bị cáo Đào Chí H phạm vào tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” [16]. Ngày 02/12/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương ban hành kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKN-VKS-TA đối với bản án hình sự sơ thẩm nêu trên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử bị cáo H về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 [21]. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 12/2020/HS-PT ngày 04/02/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội danh đối với Đào Chí H [17]. Bản án đã bị Viện kiểm sát kháng nghị giám đốc thẩm bằng quyết định số 240/QĐ-VC3-V1 [32]. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 14/2021/HS-GĐT ngày 03 tháng 02 năm 2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy toàn bộ Bản án hình sự phúc thẩm số 12/2020/HSPT ngày 04/02/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương và một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2019/HSST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Đào Chí H để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật [33].

Nguyên nhân của sự khác nhau trong xác định tội danh của VKS và Tòa án nhân dân trong việc xác định tội danh của Đào Chí H là do mâu thuẫn trong việc

xác định tuổi của bị hại. Viện kiểm sát các cấp căn cứ vào hồ sơ bệnh án sản khoa, biên bản xác minh ngày 19/7/2019 tại trạm y tế, giấy khai sinh của người bị hại thể hiện bị hại sinh ngày 01/6/2006 nên tại thời điểm bị hại bị xâm hại tình dục thì bị hại có độ tuổi là 11 tuổi 06 tháng 15 ngày. Do đó, hành vi giao cấu của bị cáo đối với bị hại cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong khi đó, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cho rằng giấy khai sinh của bị hại là đăng ký quá hạn, bệnh án sản khoa không ghi tên bị hại nên không có căn cứ xác định chính xác ngày sinh bị cáo. Do đó, Tòa án căn cứ vào Kết luận giám định xác định bị hại có độ tuổi từ trên 15 tuổi đến dưới 15 tuổi 6 tháng để xác định bị cáo phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Theo quan điểm của học viên, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm căn cứ vào kết luận giám định để xác định tuổi bị hại trong khi đã có giấy chứng sinh, sổ hộ khẩu và lời khai của cha mẹ bị hại là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, không đảm bảo sự thật khách quan của vụ án và trái với quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXA ngày 21/12/2018.

Mặc dù ở Đồng Nai chưa phát hiện những sai phạm khi áp dụng pháp luật về bị hại trong xét xử, nhưng việc nghiên cứu các quyết định giám đốc thẩm và bản án của các địa phương khác là kinh nghiệm để việc áp dụng pháp luật về bị hại trên thực tiễn được chính xác, bảo vệ tốt nhất quyền lợi bị hại và xác định sự thật khách quan của vụ án.

2.2.3. Những hạn chế về mặt pháp luật và nguyên nhân của khó khăn khi áp dụng quy định về bị hại

Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án ở tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2020, cho thấy, mặc dù bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị nhưng không bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án do xác định sai tư cách tố tụng của bị hại hoặc không bảo đảm quyền lợi của bị hại. Tuy nhiên, tiếp cận các bản án cho thấy không phải tất cả quy định về bị hại đều được áp dụng đúng, mà còn có những hạn chế nhất định khi xác định bị hại, xác định tuổi bị hại, xử lý khi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.

bị hại rút yêu cầu khởi tố, bảo vệ quyền lợi của bị hại. Những hạn chế, thiếu sót khi áp dụng quy định về bị hại xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.

Một là, do sự chưa hoàn thiện của quy định pháp luật về bị hại.

Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 7

Bộ luật Tố tụng hình sự đưa ra quy định về bị hại nhưng lại không đưa ra thời điểm chủ thể bị thiệt hại được xác định là bị hại, cơ quan nào có thẩm quyền xác định bị hại và hình thức của văn bản pháp lý xác định cá nhân, pháp nhân là bị hại. Bên cạnh đó, thời điểm rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại và căn cứ pháp lý để xử lý khi bị hại rút yêu cầu khởi tố không được quy định, dẫn đến lúng túng trong thực tiễn; Bộ luật Tố tụng hình sự quy định khi bị hại rút yêu cầu khởi tố thì Tòa án đình chỉ vụ án nhưng căn cứ đình chỉ vụ án ở giai đoạn phúc thẩm lại không có trường hợp rút yêu cầu khởi tố. Việc xác định tuổi của bị hại dựa trên quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015. Quy định này vừa xác định độ tuổi của người bị hại cũng như đối với người bị buộc tội. Quy định tại Điều 417 BLTTHS năm 2015 về việc xác định độ tuổi của người bị hại cũng như đối với người phạm tội theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo. Với quy định này, nhiều ý kiến cho rằng, hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2011 đối với người bị hại là hợp lý hơn, bảo đảm nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo. Từ những hạn chế về mặt pháp luật, dẫn đến khó khăn cho Tòa án nói riêng và cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong việc xác định và bảo đảm quyền lợi của bị hại trong Tố tụng hình sự.

Hai là, do chủ quan của người tiến hành tố tụng

Bên cạnh sự thiếu hoàn thiện của pháp luật về bị hại thì nhiều sai phạm xuất phát người làm công tác xét xử chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên họ đã không đánh giá đầy đủ, toàn diện vụ án nên áp dụng pháp luật không chính xác. Thậm chí có những trường hợp có thành viên của Hội đồng xét xử bị tha hóa đạo đức, cố tình áp dụng sai quy định của pháp luật. Mặt khác, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn chưa đồng đều cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến áp dụng quy định về bị hại đạt hiệu quả chưa cao, chưa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại.

Ba là, thiếu biên chế làm công tác chuyên môn. Hiện nay, số lượng cũng như chất lượng Thẩm phán, Thư ký chưa đáp ứng được thực tiễn yêu cầu công tác. Một số Thẩm phán, Thư ký còn chưa kiểm soát được số lượng công việc đã được phân công để kịp thời giải quyết các vụ án sắp hết thời hạn xét xử dẫn đến tồn đọng. Các Thẩm phán xét xử nhiều loại vụ án khác nhau dẫn đến hiệu quả công tác xét xử chưa thực sự có chất lượng cao. Tình hình thụ lý, giải quyết các loại án năm sau luôn cao hơn năm trước, số vụ, việc thụ lý giải quyết nhiều, tính chất ngày càng phức tạp nhưng biên chế được phân bổ chưa tương xứng với số lượng án phải giải quyết, trung bình mỗi thẩm phán giải quyết là 11 vụ/tháng. Đây là một áp lực quá lớn đối với các Thẩm phán bởi nếu tính số ngày làm việc thì mỗi Thẩm phán chỉ có khoảng hai ngày để giải quyết xong một vụ án. Số lượng công việc nhiều mà Thẩm phán còn phải chịu áp lực về chất lượng xét xử. Họ có quá ít thời gian để nghiên cứu, xây dựng hồ sơ nên khi xét xử vụ án dễ dẫn đến sai sót.


Kết luận Chương 2

Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về bị hại, học viên nhận thấy pháp luật về bị hại chưa thực sự hoàn thiện, vẫn còn những hạn chế nhất định như không quy định thời điểm xác định tư cách tố tụng của bị hại, trình tự, thủ tục xác định bị hại, về hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố, về căn cứ đình chỉ vụ án. Từ những hạn chế về mặt pháp luật, dẫn đến khó khăn cho Tòa án nói riêng và cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong việc áp dụng quy định bị hại trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc xác định bị hại, dễ nhầm lẫn với nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; khó khăn trong việc thực hiện quyền của bị hại và đặc biệt là vướng mắc trong việc thực hiện quy định khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại và rút yêu cầu khởi tố.

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại là quy định đặc thù thể hiện quyền tự quyết và tự định đoạt của bị hại trong, nên họ cũng được quyền rút yêu cầu khởi tố để chấm dứt tiến trình tố tụng nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho mình. BLTTHS

năm 2015 đã mở rộng thời điểm bị hại hoặc người đại diện của bị hại rút yêu cầu khởi tố so với BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, qua phân tích nêu trên cho thấy quy định của BLTTHS năm 2015 về khởi tố VAHS theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại vẫn còn một số điểm hạn chế, bất cập nhất định. Do vậy, trong tương lai, khi BLTTHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung cần hoàn thiện các vấn đề nêu trên, để nhằm đảm bảo tính hợp lý, có sự gắn kết và thống nhất giữa các Điều luật với nhau, đặc biệt là đảm bảo tốt hơn quyền lợi của bị hại và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS.

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


3.1. Nguyên tắc định hướng áp dụng đúng quy định về bị hại

Cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự được thực hiện theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử. Việc cải cách Tố tụng hình sự góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng. Mặt khác, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và trở thành thành viên của nhiều Điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người. Yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chính vì vậy, trong bối cảnh nước ta hiện nay thì việc hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự nói chung và các quy định về bị hại là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc hoàn thiện pháp luật phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.

Một là, nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” [22]. Bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đã hiến định vai trò của Đảng, khẳng định địa vị pháp lý của Đảng chính trị cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Do đó, Đảnh lãnh đạo hoạt động của Tòa án cũng như các cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước. Bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN bao gồm

tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về địa vị pháp lý của các tổ chức Đảng trong các cơ quan Nhà nước; quy định những điều kiện pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt động lãnh đạo của Đảng; bảo đảm nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước luôn được các cơ quan Nhà nước và mọi cán bộ, công chức tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tòa án là một cơ quan Nhà nước nên Đảng lãnh đạo Tòa án, nhằm bảo đảm hoạt động của Tòa án theo đúng đường lối chính trị, là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Đảng lãnh đạo Tòa án bảo đảm cho Tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ theo luật định, duy trì và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì sự công bằng, dân chủ và nghiêm minh trong áp dụng pháp luật.

Việc bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Toà án thông qua chủ trương, chính sách, công tác cán bộ và kiểm tra giám sát bảo đảm quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đảng đưa ra đường lối, chủ trương, chính sách và Nhà nước cụ thể hóa thành pháp luật. Nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, Đảng và cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, phải nghiêm chỉnh chấp hành, phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, đề cao pháp luật cũng tức là đề cao đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Tòa án nói riêng là bảo đảm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân bởi vì nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì Nhà nước không phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, không phải là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực sự. Vì đây cũng chính là một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.

Hai là, nguyên tắc pháp chế trong Tố tụng hình sự

Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định".

Xem tất cả 85 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí