Các cơ quan THTT, những người THTT có trách nhiệm làm rò và xử lý tội phạm nên các chủ thể này phải tuân theo đúng quy định của BLTTHS. Cơ quan THTT, những người THTT áp dụng các biện pháp mà BLTTHS quy định để giải quyết vụ án là sự thể hiện của nguyên tắc pháp chế. Với nguyên tắc này, mọi chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng phải tuân thủ theo các quy định của BLTTHS, nếu Tòa án áp dụng pháp luật mà không tuân thủ đúng pháp luật tố tụng thì kết quả đó không được pháp luật công nhận. Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quá trình xây dựng và áp dụng quy định TTHS làm cho quá trình này diễn ra theo đúng thứ tự, giúp cho quá trình TTHS trong thực tế được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Nguyên tắc pháp chế XHCN còn là cơ sở quan trọng cho việc bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia TTHS. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Nguyên tắc này đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được kiên quyết, triệt để, bảo đảm giáo dục kẻ phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế các quyền dân chủ của công dân một cách trái pháp luật. Nguyên tắc bảo pháp chế XHCN được ghi nhận là nguyên tắc cơ bản của TTHS, đây không chỉ là nguyên tắc áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự mà còn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn.
Ba là, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân
Điều 8 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”. Quy định này là để trong quá trình áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự, các chủ thể phải tôn trọng quyền con người, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân bởi tính nghiêm khắc, uy quyền của pháp luật Tố tụng hình sự, rất dễ xâm phạm đến quyền con người. Trong hoạt động xây dựng pháp
luật tố tụng hình sự, đây là một nguyên tắc cần được nghiêm chỉnh tuân thủ. Bản chất của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự mang tính quyền lực nhà nước, để đấu tranh phòng chống tội phạm nên có sự bất đình đẳng giữa các bên tham gia. Do đó, khi xây dựng hay hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự, nhà làm luật cần bảo đảm nguyên tắc này để các quy định được ban hành khi thi hành trên thực tế không xâm phạm đến quyền con người.
Bốn là, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội; bất cứ người nào phạm tội, đủ yếu tố cấu thành tội phạm đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc này đòi hỏi, khi ban hành văn bản nhà làm luật phải ghi nhận mọi cá nhân đều có vị trí như nhau trong tố tụng hình sự, không có sự phân biệt, đối xử giữa những người phân biệt đôi xử theo các dấu hiệu nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội và các dấu hiệu khác. Dù người đó là ai khi có hành vi phạm tội đều phải nghiêm túc xử lý. Bình đẳng phải được đảm bảo giữa những người tham gia tố tụng, có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ và yêu cầu, bình đẳng trong quyền nghĩa vụ trọng quá trình giải quyết vụ án nói chung và tại Tòa án nói riêng.
3.2. Các kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về bị hại
Thứ nhất, về thuật ngữ bị hại trong BLTTHS và BLHS không thống nhất. Theo BLTTHS thì bị hại bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức nên thuật ngữ được sử dụng là “bị hại”. BLTTHS là luật hình thức để đưa các quy định của BLHS thi hành trên thực tiễn. Trong khi đó, BLHS lại sử dụng thuật ngữ “người bị hại” mà nội hàm của người bị hại hẹp hơn bị hại. Do đó, để BLHS và BLTTHS được đồng bộ và thống nhất, cần thay thuật ngữ “người bị hại” trong BLHS thành thuật ngữ “bị hại” như trong BLTTHS.
Thứ hai, về thời điểm xác định bị hại. Đến thời điểm hiện tại, BLTTHS chỉ mới quy định về nội dung nhằm xác định bị hại mà chưa có quy định về thời điểm, thẩm quyền, trình tự và hình thức để xác định một cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại là bị hại để từ đó xác định quyền và nghĩa vụ của bị hại. Chính vì vậy gây khó khăn
Có thể bạn quan tâm!
- Khởi Tố Vụ Án Theo Yêu Cầu Của Bị Hại
- Thực Trạng Bị Hại Ở Tỉnh Đồng Nai Qua Công Tác Xét Xử Của Tòa Án
- Những Hạn Chế Về Mặt Pháp Luật Và Nguyên Nhân Của Khó Khăn Khi Áp Dụng Quy Định Về Bị Hại
- Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 9
- Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 10
Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.
cho người bị thiệt hại thực hiện các quyền của mình trong đó có quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Từ đó, học viên đề xuất cần có quy định cụ thể về thời điểm một chủ thể bị thiệt hại được xác định là bị hại trong Tố tụng hình sự để thuận tiện cho bị hại thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, bảo đảm cho quyền lợi của bị hại được bảo vệ tốt nhất. Mặt khác, cần quy định thời điểm bị hại được quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cùng trình tự, thủ tục công nhận bị hại và quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Vì vậy, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn về thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đồng thời bổ sung các biểu mẫu liên quan nhằm bảo đảm các quy định tại Điều 84 BLTTHS 2015 được áp dụng đầy đủ.
Thứ ba, về thời điểm rút yêu cầu khởi tố: Để có thể áp dụng chính xác, thống nhất và đúng quy định của BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức TAND năm 2015, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, thì Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn việc thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015; theo đó cần bổ sung Điều 359 BLTTHS năm 2015 theo hướng “Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”. Việc bổ sung quy định này là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015 về thời điểm bị hại hoặc người đại diện của bị hại có quyền rút yêu cầu khởi tố kể cả ở giai đoạn phúc thẩm và đảm bảo nguyên tắc pháp chế, đảm bảo tính pháp lý về thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm. Hoặc bổ sung cụm từ “và 8” vào khoản 2 Điều 359 BLTTHS năm 2015: “Khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 3, 4, 5, 6, 7 và 8 Điều 157 của Bộ luật này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án”.
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ bị hại trong tố tụng hình sự
Bộ luật tố tụng có nhiều quy định về bị hại, mục đích của quy định bị hại trong tố tụng hình sự không những để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án mà còn để bảo vệ tốt quyền lợi của bị hại - chủ thể chịu thiệt thòi do bị tội phạm xâm phạm. Do đó, để nâng cao hiệu quả bảo vệ bị hại trong tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về bị hại. Ngoài cần phải có
quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thì cần phải nâng cao trình độ văn hóa pháp lý của người áp dụng pháp luật và nhân dân, công tác tổ chức và cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật và chủ thể bị áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, tăng cường nâng cao nhận thức của cơ quan lập pháp và cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về quyền bị hại
Như đã phân tích ở phần trên, quá trình ban hành Luật hình sự và Tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay chưa nhận thức đầy đủ lý luận và tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền của bị hại trong quá trình tố tụng. Hệ thống tư pháp Hình sự ở Việt Nam chỉ tập trung đấu tranh phòng, chống tội phạm mà chưa hướng đến bảo vệ bị hại. Do đó, cần phải đặt mục đích chính của nền tư pháp hình sự là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân nói chung và bị hại nói riêng thông qua hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm mà không phải là đấu tranh phòng, chống tội phạm, từ đó mới hướng đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Về phía cơ quan cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, giải pháp nâng cao nhận thức và năng lực, trách nhiệm thực hiện quyền đòi hỏi nhiều ở kỹ năng thực thi pháp luật. Cụ thể:
Các giải pháp nâng cao năng lực nhận thức về quyền của bị hại cần tập trung vào các giải pháp nhằm đổi mới tư duy tố tụng, tư duy một chiều về mục tiêu của nền tư pháp hình sự Việt Nam. Thời gian qua, tư duy pháp lý về mục đích của tư pháp hình sự là “tìm kiếm sự thật” về tội phạm và “kiểm soát tội phạm” mà chưa chú trọng quyền của bị hại trong TTHS. Chính tư duy một chiều, tập trung kiểm soát tội phạm mà xem nhẹ nhiệm vụ tôn trọng và bảo vệ quyền của những người tham gia tố tụng, trong đó có quyền của bị hại. Cần phải có sự đổi mới và tránh tư duy một chiều như đã nói trên đối cơ quan THTT và người THTT.
Các giải pháp nhằm nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ và tư duy về quyền con người, trong đó có quyền của bị hại cho người THTT. Tình trạng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chỉ giỏi về nghiệp vụ tố tụng trên lý thuyết mà khi thực hành thì làm sai rất nhiều về trình tự, thủ tục như vi phạm quyền của người tham gia
tố tụng do xem nhẹ quyền và nghĩa vụ của bị hại. Chính vì vậy, nâng cao nghiệp vụ phải gắn liền với nâng cao nhận thức về quyền con người cho đội ngũ cán bộ tư pháp là hướng đào tạo có tính bền vững.
Thứ hai, nâng cao trình độ nhận thức, khả năng, năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất và đạo đức của người tiến hành tố tụng
Để bảo vệ quyền lợi của bị hại trong tố tụng hình sự thì ngoài sự hoàn thiện của các quy định pháp luật còn đòi hỏi trình độ nhận thức, khả năng, năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phảm chất và đạo đức của người tiến hành tố tụng.
Năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của công chức nói chung và người tiến hành tố tụng nói riêng là yếu tố có vai trò quan trọng quyết định chất lượng giải quyết các vụ án của Tòa án nói chung, của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đồng Nai nói riêng. Thẩm phán là người trực tiếp xét xử để bảo đảm sự ổn định và công bằng cho xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại nên yêu cầu đầu tiên đối với Thẩm phán là phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do Thẩm phán là người “cầm cân, nảy mực”, để bảo vệ công lý, là người nắm trong tay quyền lực, danh vọng và địa vị nhưng đi kèm trách nhiệm lớn lao. Chính vì vậy, quy trình đào tạo, tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán cần thực hiện một cách một cách khoa học. Nhiệm vụ của Tòa án là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của bị hại và người thực thi nhiệm vụ chính là các Thẩm phán.
Trong số nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, thiếu sót về áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai thì trình độ chuyên môn của người tiến hành tố tụng là yếu tố có vai trò quyết định chất lượng giải quyết các vụ án. Do đó, để đáp ứng nhu cầu về chuyên môn thì phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng người tiến hành tố tụng thường xuyên, chuyên sâu để nhằm trang bị, cập nhật kiến thức pháp lý và kỹ năng áp dụng pháp luật. Ngoài ra, bản thân Thẩm phán, Kiểm sát viên phải chủ động nâng cao trình độ, nâng cao chất lượng xét xử bằng cách trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của các Thẩm phán, Kiểm sát viên khác và nghiên cứu lại các quyết định giám đốc thẩm để rút kinh nghiệm, tự sửa chữa những yếu kém trong công tác, nâng cao chất lượng xét xử. Khi có vụ án
phức tạp thì Thẩm phán chủ động báo lãnh đạo cơ quan để tổ chức cuộc họp giữa các Thẩm phán để trao đổi chuyên môn, đưa ra cách giải quyết phù hợp để Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án tham khảo.
Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự không chỉ mình Thẩm phán mà còn có Hộ thẩm nhân dân (đối với Hội đồng xét xử sơ thẩm). Hội thẩm nhân dân là người trực tiếp áp dụng pháp luật để thể hiên bản chất Nhà nước là của dân nhưng Hội thẩm không yêu cầu về kiến thức pháp lý và không có kỹ năng xét xử. Do đó, để nâng cao chất lượng hoạt động, hằng năm cần tổ chức tập huấn văn bản pháp luật mới cho Hội thẩm nhân dân và bồi dưỡng kỹ năng xét xử, cách xử lý các tình huống thường gặp để góp phần nâng cao chất lượng. Để hoàn thiện chế định này theo đúng tính chất của nhân dân tham gia vào quá trình xét xử của Tòa án thì cần phân định rò các giai đoạn tham gia của Hội thẩm nhân dân trong quá trình xét xử vụ án như xác định có tội hay không có tội theo niềm tin nội tâm của Hội thẩm, còn việc pháp dụng pháp luật để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên thì thuộc về thẩm phán là người trực tiếp áp dụng pháp luật trong giải quyết và xét xử các vụ án hình sự để ban hành bản án công bằng, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nên Thẩm phán phải có có kiến thức pháp lý, bản lĩnh nghề nghiệp.
Ngoài nâng cao trình độ nhận thức, khả năng, năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất và đạo đức của người tiến hành tố tụng thì nhận thức về pháp luật của người dân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của bị hại. Khi người dân có sự hiểu biết và am hiểu pháp luật thì họ sẽ biết cách bảo vệ tốt nhất quyền lợi của mình, nhất là khi họ bị thiệt hại và tham gia tố tụng với tư cách bị hại. Vì vậy, cần tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật để nâng cao kiến thức pháp luật của nhân dân để từ đó họ biết sử dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật trong xã hội. Việc nâng cao trình độ pháp luật của người dân có thể thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như căng treo băng rôn khẩu hiệu; phóng tác cụm pano tuyên truyền; biên soạn tài liệu tuyên truyền; sáng tác mẫu tranh cổ động; tuyên truyền miệng; xây dựng tủ sách pháp luật ở từng địa phương; niêm yết công khai quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị hại tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã hoặc
nhà văn hóa của từng phường xã. Khi người dân có trình độ cao không những bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình mà thực hiện quyền giám sát các hoạt động tố tụng cũng hiệu quả hơn.
Thứ ba, nâng cao ý thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật và chủ thể bị áp dụng pháp luật
Ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tố tụng, đến chất lượng giải quyết án và bảo vệ quyền lợi của bị hại trong vụ án hình sự. Tất cả các chủ thể bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, bị hại và người tham gia tố tụng khác đều cần có ý thức pháp luật để điều chỉnh hành vi của mình và trong ứng xử với hành vi của các chủ thể khác phù hợp với yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự.
Để hoạt động áp dụng pháp luật của người tiến hành tố tụng được đúng đắn và hiệu quả thì phải nâng cao ý thức pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Ý thức pháp luật của người tiến hành tố tụng còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật của bị hại, của người tham gia tố tụng và toàn dân. Nếu những người áp dụng pháp luật, cơ quan công quyền thực hiện những hành vi sai trái thì làm cho nhân dân không còn niềm tin vào pháp luật và chế độ, dẫn đến thái độ coi thường pháp luật của người dân, từ đó mà tội phạm xảy ra càng nhiều, càng nhiều chủ thể bị thiệt hại. Ngược lại nếu những người áp dụng pháp luật có ý thức pháp luật cao, ban hành bản án đúng pháp luật thì không chỉ trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới; ngoài ra còn giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Mặt khác, ý thức pháp luật và hành vi của người tiến hành tố tụng có ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người, quyền lợi hợp pháp của công dân và bị hại bởi họ là có thể ban hành những quyết định làm pháp sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quyền của bị hại, có thể đưa lại lợi ích hoặc thiệt hại cả về vật chất lẫn tinh thần cho các tổ chức, cá nhân khác. Chính vì vậy, những người tiến hành tố tụng phải rèn luyện phẩm chất đạo đức chính trị nghề nghiệp, rèn luyện bản lĩnh, độc lập suy nghĩ, vì lợi ích chung, vững vàng trong quá trình tiến hành tố tụng.
Những người tiến hành tố tụng cần phải có ý thức pháp luật cao để nhận thức được ý thức pháp luật tác động tích cực đến quá trình thực hiện nghiệp vụ. Các quyết định áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng tên gọi, trình tự thủ tục do pháp luật quy định, người tiến hành tố tụng phải luôn luôn có tinh thần thượng tôn pháp luật trong mọi hoạt động của mình.
Không những thế, ý thức pháp luật của Thẩm phán nói riêng và người tiến hành tố tụng nói chung còn có vai trò quan trọng khi các quy định của pháp luật hiện hành không theo kịp sự phát triển của các quan hệ xã hội. Cụ thể khi pháp luật quy định không rò ràng hoặc thiếu vắng quy định của pháp luật, có nhiều quan điểm khác nhau và việc áp dụng quy định này không thống nhất. Trường hợp này, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm của người có thẩm quyền có ý nghĩa để giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng và khách quan. Nếu vì động cơ cá nhân hoặc những nguyên nhân khác nhau có thể không bảo vệ tốt và đúng đắn quyền lợi của người cần được bảo vệ. Do vậy, quá trình áp dụng pháp luật phải được giám sát chặt chẽ, đồng thời phải có biện pháp xử lí nghiêm minh những người cố ý áp dụng sai pháp luật.
TAND hai cấp tỉnh Đồng Nai cần thực hiện theo đúng các quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Người tiến hành tố tụng phải nắm chắc nội dung của các quy định cần áp dụng. Đối với những quy định chưa rò ràng, còn nhiều ý kiến khác nhau thì phải nỗ lực nghiên cứu để áp dụng cho đúng với tinh thần pháp luật. Các vướng mắc cần được tổng hợp lại để kiến nghị với những người có thẩm để áp dụng cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ tư, tổng kết kinh nghiệm áp dụng pháp luật
Để nâng cao chất lượng trong việc xét xử vụ án hình sự, hạn chế những thiếu sót trong việc ban hành bản án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thì cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện những sai sót trong quá trình xét xử do lỗi chủ quan của Thẩm phán. Thông qua công tác kiểm tra để nắm tình hình áp dụng pháp luật của các Tòa án địa phương, của Tòa án nhân dân cấp huyện về các kết quả đạt được và những hạn chế thiếu sót để rút kinh nghiệm chung. Khi phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chuyên