môn của Tòa án nhân dân thì kiến nghị với lãnh đạo Tòa án cấp trên đề ra các giải pháp khắc phục, tháo gỡ khó khăn cho các đơn vị này; Khi phát hiện vướng mắc trong việc thực hiện các quy định của pháp luật, sự thiếu thống nhất giữa các Thẩm phán trong cùng một Tòa án hoặc giữa các Tòa án khác nhau thì kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn, giải thích để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
Để việc kiểm tra đạt kết quả thì cần có kế hoạch kiểm tra hàng năm và việc kiểm tra phải tiến hành một cách khách quan, toàn diện, tránh hình thức. Kết thúc đợt kiểm tra, đoàn kiểm tra phải tổng hợp kết quả, ban hành kết quả kiểm tra, tổ chức rút kinh nghiệm và gửi kết quả về cho Tòa án địa phương, trong đó nêu ra những kết quả làm được để tiếp tục phát huy, chỉ ra những hạn chế thiếu sót cần rút kinh nghiệm nhằm tạo ra những chuyển biến tích cực trong công tác chuyên môn của Tòa án nhân dân trong thời gian tới.
Việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động xét xử của Tòa án là một nhiệm vụ quan trọng, kịp thời phát hiện sai phạm và chấn chỉnh nhằm nâng cao chất lượng của Tòa án. Thông qua kiểm tra chuyên môn, các trường hợp vi phạm tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bị hại được phát hiện để từ đó xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, đạt được ý nghĩa của pháp luật hình sự.
Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan tiến hành tố tụng và Tòa án với chính quyền địa phương
Khi tiến hành xét xử vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng không chỉ thuộc Tòa án nhân dân mà còn có Viện kiểm sát nhân dân. Khác với vụ án dân sự chỉ phát sinh ở Tòa án thì vụ án hình sự bắt đầu từ Cơ quan điều tra, sau đó Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử. Như vậy, để giải quyết vụ án hình sự thì cần có sự liên quan đến nhiều cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Trong đó, mỗi một giai đoạn lại có sự liên quan chặt chẽ với nhau, giai đoạn này là tiền đề của giai đoạn tiếp theo. Kết thúc giai đoạn điều tra là kết luận điều tra, dựa trên kết luận điều tra Viện kiểm sát ban hành quyết định truy tố và chuyển hồ sơ sang Tòa án xét xử. Qua mỗi giai đoạn tố tụng tại mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thì người bị buộc tội lại có những tên gọi khác nhau nhưng bị hại thì không thay đổi. Từ khi tham gia tố tụng ở
giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử vẫn là bị hại (trừ trường hợp xác định sai tư cách bị hại thành người tham gia tố tụng khác nên đổi lại thành bị hại). Quyền và nghĩa vụ của bị hại cũng được thực hiện thông qua các giai đoạn tố tụng khác nhau, qua các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau. Do đó, để bảo vệ tốt quyền lợi bị hại thì cần có sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong tố tụng hình sự là mối quan hệ trên cơ sở chức năng nhiệm vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho bị hại. Để việc giải quyết vụ án hình sự nói chung và bảo vệ tốt quyền lợi của bị hại nói riêng đạt hiệu quả, thì công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân đóng vai trò hết sức quan trọng.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hoạt động điều tra vụ án hình sự của điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát biết để cử kiểm sát viên tham gia kiểm sát đó là: Hoạt động đối chất, khám xét, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra. Trong đó, việc khám nghiệm hiện trường, tử thi là sự có mặt tuyệt đối, còn các hoạt động còn lại nếu kiểm sát viên vắng mặt phải ghi rò vào biên bản. Các hoạt động trên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa điều tra viên và kiểm sát viên trong việc thông báo thời gian, địa điểm để tham gia kiểm sát. Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015 thì Viện kiểm sát kiểm sát việc lập hồ sơ và kiểm sát hành vi tố tụng của người tham gia tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. VKS có quyền yêu cầu CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra cung cấp hồ sơ, tài liệu ở giai đoạn khởi tố bị can và giai đoạn điều tra sau khởi tố, do đó quyền phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can của VKS được thực hiện thuận lợi và có căn cứ. Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can là hoạt động đầu tiên và quan trọng của quá trình tố tụng, cần có sự sự kiểm sát của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên kiểm sát căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can bằng cách phê chuẩn quyết định khởi tố. Trường hợp chưa đủ căn cứ thì có thể yêu cầu CQĐT bổ sung, tài liệu, chứng cứ. Khi quản lý và xử lý
tin báo hoặc được phân công thụ lý vụ án, KSV nhanh chóng nắm chắc diễn biến hành vi phạm tội, kết quả điều tra, để thảo luận với ĐTV xây dựng kế hoạch phối hợp công tác kiểm sát điều tra, xác định những nội dung cần điều tra, những chứng cứ cần thu thập, những vấn đề cần làm sáng tỏ thêm. Trên cơ sở thảo luận giữa ĐTV và KSV, các bên thống nhất về thời gian, phương pháp thực hiện và dự kiến công tác phối hợp về sau. Kiểm sát viên phải theo dòi diễn tiến của vụ án, phải nghiên cứu hồ sơ vụ án từ đầu và suốt quá trình kiểm sát điều tra. Nếu khi kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang VKS mới nghiên cứu hồ sơ vụ án, thì sẽ không nắm được tình trạng hồ sơ, kết quả điều tra. Mặt khác, với vụ án lớn, sau khi kết thúc điều tra KSV mới đọc thì rất dễ rối về thông tin. Kiểm sát viên cần chủ động và quan tâm đúng mức nghiên cứu hồ sơ vụ án, không phụ thuộc vào việc trao đổi thông tin vì tất cả các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Đọc kỹ hồ sơ vụ án là để kiểm tra lại thủ tục tố tụng, xác định hành vi phạm tội và các tình tiết khác nhằm bảo vệ tốt nhất bị hại.
Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát: Để giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, chính xác và khách quan, ngoài sự phối hợp giữa CQĐT và VKS thì mối quan hệ phối hợp trong Tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án cũng là một vấn đề quan trọng. Đây là mối quan hệ giữa chức năng xét xử của Tòa án và chức năng buộc tội của Viện kiểm sát. Việc truy tố của Viện kiểm sát là cơ sở cho hoạt động xét xử của Tòa án. Việc VKS kiểm sát tốt vụ án từ khi khởi tố, điều tra vụ án nhằm xác định đúng tội phạm và đúng khung hình phạt truy tố, cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho Toà án thực hiện hiệu quả hoạt động xét xử. Việc truy tố đúng tội danh và khung hình phạt thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Ngược lại, việc xét xử của Toà án đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hành quyền truy tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Bị Hại Ở Tỉnh Đồng Nai Qua Công Tác Xét Xử Của Tòa Án
- Những Hạn Chế Về Mặt Pháp Luật Và Nguyên Nhân Của Khó Khăn Khi Áp Dụng Quy Định Về Bị Hại
- Các Kiến Nghị Cụ Thể Hoàn Thiện Pháp Luật Về Bị Hại
- Bị hại trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 10
Xem toàn bộ 85 trang tài liệu này.
Cơ sở của sự phối hợp giữa VKS và Tòa án trong Tố tụng hình sự (giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung) là phải có tội phạm xảy ra, chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án hình sự, dựa nguyên tắc xác định sự thật vụ án thì phối hợp giữa các cơ
quan tố tụng hình sự là tất yếu. Quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người tiến hành tố tụng nhằm giải quyết vụ án, trừng trị người phạm tội và bảo vệ bị hại, nhất là khi các quy định của pháp luật có sự bất cập, chưa hoàn thiện, đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứ pháp luật để bảo vệ và khôi phục tổn thất mà bị hại gánh chịu.
Mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Toà án trong Tố tụng hình sự được thực hiện trên cơ sở các thông tư liên ngành và các quy chế phối hợp về các vấn đề, như họp trù bị giữa Tòa án và Viện kiểm sát, thông tư giải quyết án trọng điểm, thông tư về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội, thông tư về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự quy định. Trên cơ sở các văn bản pháp luật liên ngành xác định về các nội dung phối hợp giải quyết những vấn đề trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương xây dựng kế hoạch liên ngành phối hợp giải quyết những vấn đề cụ thể như định kỳ họp liên ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh và huyện để thống nhất giải quyết những vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa, mọi hoạt động xét xử của Toà án phải trên cơ sở truy tố của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, giám sát việc tuân thủ pháp luật của hội đồng xét xử, của người tham gia tố tụng. Sau khi xét xử Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án nếu có vi phạm pháp luật hoặc ban hành kiến nghị. Như vậy, mối quan hệ giữa Tòa án và VKS là mối quan hệ độc lập trên cơ sở phối hợp với nhau.
Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, thì mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát cần được xây dựng theo hướng độc lập nhưng có sự phối hợp giữa các cơ quan để đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của Toà án, bảo vệ bị hại.
Như vậy, mối quan hệ giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và Tòa án được quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự, đây là mối quan hệ phối hợp trong hoạt động
thực tiễn về thực hiện chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan, để các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ được giao trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với các chính quyền địa phương
Ngoài sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp thì sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng và chính quyền địa phương góp phần tích cực cho yêu cầu đấu tranh chống tội phạm và bảo vệ bị hại ở tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa Tòa án và chính quyền địa phương theo quy chế phối hợp hiện nay còn chưa được chặt chẽ, đồng bộ và chưa đi vào chiều sâu, chất lượng còn chưa đáp ứng được nhu cầu hiện nay trong công tác xét xử cũng như công tác giải quyết các loại án của Tòa án. Thực tế hiện nay sự chỉ đạo của lãnh đạo chính quyền địa phương cùng với một số cán bộ được giao nhiệm vụ hỗ trợ Tòa án chưa nhiệt tình trong công việc cũng như chưa làm tròn trách nhiệm và chú trọng công tác phối hợp với Tòa án. Nếu công tác phối hợp đồng bộ, chặt chẽ và đi vào chiều sâu thì ngành Tòa án sẽ có nhiều thuận lợi trong thực hiện nhiệm vụ của mình, đặc biệt tỉnh Đồng Nai là địa phương có số lượng người đông, và án nhiều. Công tác phối hợp chặt chẽ không những tạo điều kiện cho ngành tòa án tại tỉnh Đồng Nai giải quyết công việc chuyên môn mà còn hiệu quả cao trong việc tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật.
Để đạt được hiệu quả cao và phát huy sự phối hợp thì giữa các cơ quan tố tụng cần kiện toàn quy chế, từng bước khắc phục những hạn chế, vướng mắc giữa các bên nhằm đảm bảo công tác phối hợp xử lý đạt kết quả tốt nhất. Muốn đạt được kết quả tốt hơn thì sự lãnh đạo của các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cần tăng cường công tác chỉ đạo, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phối hợp. Như vậy, để ngành Tòa án thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ chính trị cũng như nhiệm vụ chuyên môn thì cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan với nhau để đạt hiệu quả cao.
Kết luận chương 3
Qua nghiên cứu quy định pháp luật về bị hại ở Chương 2, học viên nhận thấy mặc dù pháp luật đã dành nhiều quy định về bị hại nhưng quy định về bị hại vẫn còn những bất cập dẫn đến việc bảo vệ quyền lợi bị hại chưa thật sự được bảo đảm. Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 2, học viên đã đưa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng bảo vệ bị hại trong tố tụng hình sự.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trên tinh thần thượng tôn pháp luật, nên khi hoàn thiện pháp luật cũng phải tôn trọng những nguyên tắc nhất định để các văn bản, quy phạm pháp luật ban hành được đồng bộ và thống nhất. Theo đó, việc hoàn thiện pháp luật bị hại cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, đó là nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước (trong đó có hoạt động ban hành văn bản pháp luật), nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Từ các nguyên tắc trên, học viên đưa ra các kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật bị hại như đồng bộ tên gọi bị hại trong các văn bản pháp luật, thời điểm xác định tư cách bị hại, về khởi tố và rút yêu cầu khởi tố của bị hại, về thẩm quyền của Thẩm phán.
Hiệu quả bảo vệ quyền lợi bị hại không chỉ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của pháp luật và chịu ảnh hưởng rất lớn của nhiều yếu tố khác. Do đó, học viên đưa ra các giải pháp để nâng cao trình độ pháp lý, ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật và nhân dân, về tổ chức và cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật.
KẾT LUẬN
Bộ luật Tố tụng hình sự là văn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng hình sự trên cơ sở của pháp luật nội dung là Bộ luật Hình sự. Nhiệm vụ của pháp luật hình sự là bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng liên quan đến chế độ, quyền con người và quyền công dân, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục để đưa các quy phạm pháp luật vào thực tiễn. Trong quan hệ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, người bị buộc tội là chủ thể nhận được nhiều sự quan tâm của các quy định pháp luật và của các cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi lẽ, người bị buộc tội có khả năng phải chịu các chế tài của pháp luật hình sự, hạn chế quyền tự do và có thể là quyền sống. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội cũng được quan tâm nghiên cứu. Ngược lại với người bị buộc tội là bị hại. Bị hại là người bị tội phạm xâm phạm, bị tổn thất về thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín nên pháp luật phải bảo vệ quyền lợi bị hại và phải nhận được sự quan tâm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, bản chất của pháp luật hình sự và tố tụng hính sự mang tính quyền lực nhà nước; trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đối với nhà nước; nhà nước không tham gia vào các quan hệ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự với vai trò là bên thứ ba để bảo đảm quyền lợi, hài hòa quyền lợi của các bên, nên không thật sự chú trọng đến quyền lợi của bị hại.
BLTTHS đã quy định về việc xác định bị hại. Theo đó bị hại là chủ thể bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra gồm có cá nhân và cơ quan, tổ chức. Bị hại là người tham gia tố tụng nhưng từ quy định tại Điều 62 BLTTHS ta có thể phân biệt được bị hại với người tham gia tố tụng khác thông qua tính trực tiếp bị thiệt hại. Việc xác định bị hại có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự như xác định đúng tội danh và trách nhiệm hình sự mà người bị buộc tội phải gánh chịu, trong việc bảo vệ quyền lợi của bị hại, khôi phục lại những thiệt hại mà bị hại gánh chịu, dự báo tình hình tội phạm để có các biện pháp phòng ngừa.
Mặc dù bị hại có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự nhưng qua nghiên cứu các quy định của pháp luật thì quy định về bị hại vẫn còn những vướng mắc. Bị
hại có nhiều quyền hơn những người tham gia tố tụng khác nhưng việc thực hiện quyền bị hại để bảo vệ chính mình chưa thực sự hiệu quả. Trong đó, bị hại có quyền chủ động yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và quyền rút yêu cầu khởi tố nhưng quyền này khi thực hiện trên thưc tế gây ra nhiều khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quyền lợi bị hại trên thực tế chưa được bảo đảm có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân lớn đến từ pháp luật về bị hại chưa hoàn thiện. Chính vì vậy, luận văn đã đưa ra những đề xuất cụ thể để hoàn thiện về mặt pháp luật. Để các quy đinh pháp luật bảo vệ bị hại đi vào thực tế thì cần phải có sự áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, để bảo vệ quyền lợi bị hại thì ngoài việc hoàn thiện về mặt pháp luật, cần phải có các biện pháp khác để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào thực tiễn như trình độ pháp luật của người áp dụng pháp luật, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người tiến hành tố tụng và toàn dân, về cơ sở vật chất, về tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật và sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng pháp luật.
Như vậy, luận văn không chỉ nghiên cứu các quy định của pháp luật về bị hại để tìm ra hạn chế, từ hạn chế về mặt pháp luật và thực tiễn thi hành để đưa ra các giải pháp áp dụng trên thực tiễn nhằm bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.