Nguyên Nhân Của Các Hạn Chế Trong Thực Tiễn Bảo Vệ Quyền, Lợi Ích Hợp Pháp Của Nhà Đầu Tư Trong Công Ty Niêm Yết

- Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex - là cổ đông chiếm 51% cổ phần) được mua 51% số lượng cổ phần phát hành mới (9,1188 triệu cổ phiếu) tương ứng với tỷ lệ 51% cổ phần mà cổ đông này đang nắm giữ tại VIP, giá của mỗi cổ phần là 15.000 đồng (gấp 1,5 lần mệnh giá).

- Các cổ đông khác được mua số cổ phần còn lại (8,7612 triệu cổ phiếu) theo tỷ lệ 50:21 (sở hữu 50 cổ phiếu được mua thêm 21 cổ phiếu) với giá là 40.000 đồng/cổ phiếu (gấp 4 lần so với mệnh giá). Như vậy, giá mua của các cổ đông nhỏ cao gấp 2,67 lần so với giá mua của cổ đông lớn Petrolimex.

Nếu so với cổ đông lớn, các cổ đông khác bị thiệt hại số tiền là 219 tỉ đồng (số tiền chênh lệch về giá khi mua cổ phiếu phát hành mới).

Do phương án phát hành không được các cổ đông (trừ Petrolimex) đồng ý nên buộc phải huỷ bỏ. Sau đó, Hội đồng quản trị lại tiếp tục thông qua một phương án gần giống như phương án trước đây. Theo đó, VIP sẽ phát hành cổ phần để lấy vốn đầu tư cho dự án phát triển đội tàu với tổng giá trị phát hành là 178,8 tỷ đồng. Tất cả các cổ đông sẽ được quyền mua cổ phần với tỷ lệ 50:21. Nhưng các cổ đông phải lựa chọn một trong hai phương án: mua với giá 15.000 đồng/cổ phần và số cổ phần này bị hạn chế chuyển nhượng trong 10 năm; hoặc mua với giá 30.000 đồng/cổ phần và được tự do chuyển nhượng ngay sau thời điểm phát hành [30].

Đối xử bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư cũng xảy ra tại công ty cổ phần đầu tư phát triển công nghệ FPT. Tháng 3/2007, hàng loạt pháp nhân mới ra đời như Ngân hàng cổ phần FPT (FPT Bank), Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (FPT Capital), Công ty cổ phần chứng khoán FPT (FPT Sercurities), Công ty cổ phần dịch vụ trực tuyến FPT (FPT Online), Trường phổ thông Năng khiếu FPT. Đáng lưu ý là FPT chỉ góp một tỷ lệ vốn khá

khiêm tốn, chỉ chiếm 15% ở FPT Bank, 25% ở FPT Sercurities, 33% ở FPT Capital… Trên thực tế, cổ phần của FPT “mẹ” trong các FPT “con” quá ít là để nhường “chỗ” cho một số thành viên trong Hội đồng quản trị của FPT. Ông Bình thừa nhận các thành viên Hội đồng quản trị được quyền đóng 29%; 47,7%; 4,5% vào các công ty FPTS, FPTC, FPTB (riêng ông Bình đóng 4,3%; 6,8%; 1,1% theo tỷ lệ tương ứng). Theo ông Bình, tỷ lệ góp vốn của các thành viên này cần “tương ứng với những đóng góp trong quá khứ cũng như tương lai cho tập đoàn này” và “cũng là một sự bảo đảm cho sự phát triển bên vững của các tổ chức trên” [33].

Tháng 8/2007, thị trường chứng khoán đã chứng kiến sự sụt giảm mạnh mẽ của giá cổ phiếu FPT. Câu hỏi được nhiều cổ đông nhỏ bên ngoài đặt ra là: vì sao họ không được tham gia quá trình thành lập công ty “con” và quyết định phương thức góp vốn vào những công ty này? (bởi lẽ nếu FPT sở hữu 100% thì lợi nhuận của những công ty con sẽ chảy về công ty mẹ và các cổ đông cùng được hưởng), ai là người quyết định mỗi thành viên lâu năm FPT sẽ được quyền mua cổ phần theo giá gốc vào FPTS, FPTC, FPTB và với tiêu chí nào, tỷ lệ nào?, ai quyết định tỷ lệ quyền đóng góp 29%; 47,7%, 4,5% cho các cá nhân Hội đồng quản trị và ai quyết định tỷ lệ 4,3%; 6,8%; 1,1% cho bản thân nhân vật CEO?, ai quyết định các cổ đông bên ngoài công ty không được mua cổ phần giá gốc?.

Câu trả lời là do các nhà đầu tư đã trao quyền quá lớn cho Hội đồng quản trị. Theo đó, tất cả chủ trương thành lập công ty con và quyết định phương thức góp vốn đã không được thông qua tại Đại hội cổ đông FPT. Đơn giản là vì các cổ đông đã thông qua Điều lệ công ty theo hướng trao quyền cực lớn cho Hội đồng quản trị. Theo bản Điều lệ này, chỉ có những khoản đầu tư có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của FPT mới phải biểu quyết tại Đại hội cổ đông. Theo Báo

cáo tài chính năm 2006 của FPT, tổng tài sản của FPT lên đến 3.400 tỷ đồng

[33] nghĩa là chỉ có những khoản đầu tư chừng 1.700 tỷ đồng trở lên mới đến tay Đại hội cổ đông. Ngoài ra, Điều lệ này cũng đã quy định “Hội đồng quản trị được quyền thành lập công ty con”, tức là đa số cổ đông đã tự gạt mình ra khỏi cuộc chơi góp vốn mở rộng kinh doanh này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Đối xử bất bình đẳng với cổ đông nhỏ, cổ đông thiểu số gây thiệt hại không nhỏ cho họ và bức xúc trong dư luận. Nhưng các nhà đầu tư chỉ còn biết chấp nhận thực tế bởi đây là vấn đề có liên quan đến quản trị doanh nghiệp niêm yết, trong khi đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước không có thẩm quyền giải quyết đối với vấn đề này. Nếu có can thiệp vào vụ việc thì Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng chỉ có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với doanh nghiệp niêm yết do vi phạm quy chế quản trị công ty niêm yết theo Nghị định 85. Hiện nay, ở nước ta chưa có một tổ chức nào có nhiệm vụ bảo vệ nhà đầu tư được thành lập để đại diện cho quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ trong những vụ việc trên. Theo Luật Chứng khoán Australia, Ủy ban Chứng khoán và Đầu tư nước này (ASIC) sẽ xem xét những trường hợp ưu ái cổ đông lớn. Nếu sự ưu ái đó bị những cổ đông nhỏ phản đối, ASIC sẽ can thiệp để lấy lại sự công bằng cho các cổ đông [7]. Việc bán cổ phiếu ưu đãi cho những cổ đông lớn thường đi kèm một loạt nghĩa vụ, như: cam kết gắn bó lâu dài với doanh nghiệp cho đến khi được thực hiện quyền mua cổ phiếu, phải làm tròn nhiệm vụ của mình, không bán quyền mua.‌

2.5. Nguyên nhân của các hạn chế trong thực tiễn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong công ty niêm yết ở Việt Nam - 9

2.5.1. Quản trị công ty niêm yết ở mức sơ khai


Quản trị công ty được hiểu là là tất cả các thiết chế và phương pháp nhằm tổ chức doanh nghiệp một cách có hiệu quả vì lợi ích của cổ đông và xã

hội. Quản trị công ty không chỉ bao gồm quản lý nội bộ mà bao gồm rất nhiều thành tố cùng góp phần chuyển tải các tín hiệu từ thị trường thành hành vi của doanh nghiệp. Do vậy, quản trị công ty niêm yết là yếu tố nội tại của bản thân doanh nghiệp và được cho là yếu tố đầu tiên lý giải cho thực trạng vi phạm quyền lợi của nhà đầu.

Từ Báo cáo kết quả khảo sát của Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) thuộc Ngân hàng Thế giới, Diễn đàn Quản trị công ty toàn cầu (GCGF) và UBCKNN được công bố ngày 14/12/2010 tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, tình hình quản trị công ty niêm yết tại Việt Nam chỉ ở mức sơ khai. Khảo sát này được thực hiện trên 100 công ty niêm yết lớn nhất (gồm 78 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán phố Hồ Chí Minh và 22 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội theo dự án “Thẻ điểm quản trị công ty”. Đây là 100 công ty niêm yết có giá trị vốn hóa chiếm 90% thị trường chứng khoán vào thời điểm 1/1/2009. Cụ thể, so với chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, điểm quản trị công ty trung bình của các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam trong mẫu khảo sát là 43,9% (trên thang điểm 100%), trong đó cao nhất là 60,9% và thấp nhất là 20,5% (Phụ lục 2). Trong số 100 công ty niêm yết được khảo sát, có 80/100 công ty có mức điểm dưới trung bình [5]. Quản trị công ty niêm yết ở nước ta còn ở mức thấp được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

2.5.1.1. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị chưa tương xứng với quyền hạn

Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty niêm yết, có toàn quyền nhân danh công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Quy chế quản trị công ty niêm yết, Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty

niêm yết thì nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng quản trị tập trung vào các vấn đề chiến lược và định hướng chiến lược, vốn và cơ cấu vốn, nhân sự chủ chốt, giám sát quản lý điều hành và đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động.

Thành viên Hội đồng quản trị có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách trung thực, cẩn trọng vì quyền lợi tối cao của cổ đông và của công ty. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước các cổ đông về hoạt động của Công ty [2].

* Trách nhiệm của Hội đồng quản trị và thành viên Hội đồng quản trị còn thấp

Theo Báo cáo kết quả thực hiện dự án “Thẻ điểm quản trị công ty” nêu trên, mức điểm trung bình của khía cạnh trách nhiệm của Hội đồng quản trị là tương đối thấp (35,3%) (Phụ lục 2). Mặc dù, vai trò của các thành viên Hội đồng quản trị được quy định rõ trong Điều lệ mẫu, Quy chế quản trị công ty niêm yết nói chung và trong Điều lệ, Quy chế quản trị của mỗi công ty niêm yết nói riêng nhưng chưa được thực hiện đầy đủ. Báo cáo về hoạt động của Hội đồng quản trị tuy có được soạn thảo nhưng sơ sài và hình thức, chưa cụ thể. Các Báo cáo này chưa cung cấp thông tin chi tiết về tình hình thực hiện trách nhiệm, các hành động cụ thể của Hội đồng quản trị, cũng như chưa đánh giá vai trò của từng thành viên Hội đồng quản trị. Ngoài ra, sự phối hợp giữa Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát trong vai trò quản trị công ty chưa được nêu rõ, tình hình tham dự các cuộc họp của các thành viên không được đề cập. Cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị chưa rõ ràng; chưa có các ban chuyên trách như: tiểu ban thù lao đãi ngộ, tiểu ban phát triển nhân sự, tiểu ban kiểm toán.

Thực tế hoạt động của các công ty niêm yết cho thấy những công ty này chưa có cơ chế cảnh báo sớm từ phía nhà đầu tư, các bên liên quan tới

Hội đồng quản trị đối với các tiêu cực, các vi phạm về quản trị công ty. Báo cáo nêu trên đã chỉ ra rằng hầu hết các công ty chưa có cơ chế để trao đổi và cảnh báo với Hội đồng quản trị về các hành vi sai phạm của doanh nghiệp.

* Thành viên Hội đồng quản trị hoạt động kiêm nhiệm


Hiện nay, xu hướng quản trị công ty trên thế giới là hạn chế thành viên Hội đồng quản trị tham gia công tác điều hành công ty và phát huy vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập. Tuy nhiên tại Việt Nam, với vai trò lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị thường kiêm nhiệm chức vụ Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc. Theo thống kê mới nhất của Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, chỉ có 107/177 công ty niêm yết thực hiện bầu thành viên hội đồng quản trị độc lập không điều hành và chỉ có 99/177 công ty tách bạch giữa Hội đồng quản trị và Ban giám đốc [33].

Những con số trên cũng cảnh báo nguy cơ lạm dụng quyền lực của thành viên Hội đồng quản trị là rất lớn. Xét theo sự giám sát giữa cổ đông, nhà đầu tư đối với người quản lý, thì mô hình này có thể giúp giảm chi phí giám sát nội bộ nhưng cũng có thể là thiếu giám sát đủ mạnh từ bên ngoài, nhất là từ cổ đông thiểu số và từ cổ đông Nhà nước. Luật Công ty của Trung Quốc đã quy định rất rõ rằng, khi bất cứ Giám đốc nào có mối quan hệ với doanh nghiệp liên quan đến vấn đề được thảo luận tại cuộc họp Hội đồng quản trị, thì người đó không có quyền biểu quyết nghị quyết cuộc họp cũng như không có quyền thay mặt người khác để biểu quyết [28]. Trở lại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp, Quy chế quản trị công ty niêm yết và Điều lệ mẫu áp dụng đối với các công ty niêm yết không cấm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc (Giám đốc) nhưng cũng không có quy định hạn chế như trên. Bất cập này đã bộc lộ rõ nét với trường hợp của Công ty cổ phần Dầu

thực vật Tường An (TAC), rõ ràng nếu như vướng mắc trên không tồn tại thì chắc chắn sẽ không xảy ra chuyện người đại diện của cổ đông lớn là Vocarimex phủ quyết toàn bộ ý kiến của đại đa số cổ đông, dù quyết định đó không hề mang lại lợi ích cho TAC.

* Thành viên Hội đồng quản trị độc lập chưa phát huy được tính độc lập của mình

Những hành động tư lợi của đại diện Vicarimex trong Hội đồng quản trị (HĐQT) của Công ty cổ phần Dầu thực vật Tường An đã đặt ra một câu hỏi: Trách nhiệm của thành viên HĐQT độc lập ở đâu đối với việc bảo vệ quyền lợi tối cao của cổ đông?. Theo Điều 11 Quy chế Quản trị công ty niêm yết và Điều 24 Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết, tính độc lập của thành viên HĐQT được thể hiện bằng quy định: “tối thiểu 1/3 tổng số thành viên Hội đồng quản trị là độc lập không điều hành” (số lượng thành viên Hội đồng quản trị là từ 5 đến 11 người). Quy định này nhằm hạn chế thành viên HĐQT kiêm nhiệm chức vụ trong bộ máy điều hành, ngăn ngừa các xung đột lợi ích trong doanh nghiệp, bảo vệ nhà đầu tư. Tuy nhiên, bản thân từ “độc lập” ở đây cũng gây rất nhiều tranh cãi. Nếu như một số người cho rằng “độc lập” có nghĩa là hoàn toàn không có lợi ích nào từ công ty, bao gồm cả việc không sở hữu cổ phần trong công ty, thì số khác lại hiểu “độc lập” nghĩa là hoàn toàn độc lập về quản lý, tách biệt các mối quan hệ có thể tác động tới hoạt động kinh doanh của công ty. Tựu chung lại, có thể thấy thành viên HĐQT độc lập bắt buộc phải độc lập trong quan hệ nhân thân và độc lập trong quan hệ sở hữu và kinh tế [35].

Độc lập trong quan hệ nhân thân được hiểu là:

- Không từng là nhân viên, người quản lý điều hành của công ty, người đại diện vốn của công ty mẹ tại công ty trong vòng 3-5 năm trước đó.

- Không có mối quan hệ, liên kết với người quản lý điều hành, nhân sự cấp cao của công ty, cổ đông lớn (sở hữu một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần của công ty trở lên).

- Không là người làm tư vấn, kiểm toán cho công ty, công ty liên quan trong một khoảng thời gian nhất định trước đó với tư cách cá nhân hoặc là người quản lý điều hành, nhân viên, đối tác, chủ sở hữu,… của hãng cung cấp các dịch vụ này.

- Thời gian tham gia làm thành viên HĐQT của công ty không quá một số năm nhất định kể từ ngày được bổ nhiệm lần đầu tiên. Chẳng hạn, 9 năm theo luật Anh, Hồng Kông,…

Độc lập trong quan hệ về sở hữu và kinh tế được hiểu là:

- Không phải là người sáng lập, là cổ đông lớn của công ty hay là người đại diện của cổ đông lớn. Ở Hồng Kông quy định tỷ lệ tối đa cổ phiếu của công ty niêm yết mà thành viên HĐQT độc lập được phép nắm giữ, chẳng hạn 1% theo quy định niêm yết.

- Ngoại trừ thù lao từ việc làm thành viên HĐQT, không hưởng bất kỳ lợi ích vật chất nào khác (như quyền mua cổ phiếu, các khoản trợ cấp,…) từ công ty.

- Trong vòng 3 năm trước đó không nhận các khoản bồi thường, đền bù,… từ công ty (trừ lương hưu, thù lao do tham gia các ủy ban,…) trên mức quy định, chẳng hạn 100.000 USD theo quy định niêm yết của SGDCK NewYork.

- Không có quan hệ kinh tế với danh nghĩa cá nhân hay với tư cách là người quản lý điều hành, chủ sở hữu dưới dạng hợp đồng, thỏa thuận, cam kết với công ty và công ty liên quan trong vòng 2 năm (như ở Hồng Kông, Malaysia,…) hoặc 3 năm (như ở Mỹ, Úc,…) trước có giá trị cao hơn mức quy định.

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí