Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam - 8

chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung 2010 [29, Điều 10a] và nghị định 58/2012/NĐ-CP [16, Điều 4], bao gồm (1) Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị thông qua phương án chào bán và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán, xác định rõ đối tượng, số lượng nhà đầu tư. (2) Việc chuyển nhượng cổ phiếu bị hạn chế tối thiểu 1 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán (3) Các đợt chào bán cách nhau ít nhất 6 tháng. Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng được quy định tại điều 12 Luật chứng khoán 2006, mục 2 nghị định 58/2012/TT-BTC. Theo đó, đối với chào bán cổ phiếu ra công chúng, công ty niêm yết cần thỏa mãn các điều kiện sau (1) về tiềm lực tài chính: Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán, (2) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán (3) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Đối với việc chào bán trái phiếu, yêu cầu tương tự như với chào bán cổ phiếu, chỉ thêm yêu cầu là không có các khoản nợ quá hạn trên một năm và có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Đặt ra những yêu cầu như trên là để pháp luật phần nào giảm bớt những rủi ro cho nhà đầu tư, khi thông qua những quy định này có thể sàng lọc ra những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, làm ăn hiệu quả mới được chào bán ra công chúng, qua đó nhà đầu tư sẽ có sự đảm bảo về giá trị của chứng khoán mà họ mua.

2.1.2.2. Quản lý thị trường giao dịch

Để quản lý TTCKTT, theo quy định của Luật chứng khoán, chỉ có SGDCK và TTGDCK mới được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán. Ngoài hai chủ thể này, không tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán [29, Điều 33]. Theo quy định của Luật chứng khoán thì SGDCK, TTGDCK là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Đây là một điểm mới, khác với quy định của Nghị định 144/2003/NĐ-CP [14].Theo Nghị định 144/2003 thì TTGDCK là đơn vị sự

nghiệp có thu, trực thuộc UBCKNN còn SGDCK là một pháp nhân tự chủ về tài chính, chịu sự giám sát và quản lý của UBCKNN. Hiện nay, các quyền và nghĩa vụ, việc quản lý điều hành SGDCK và TTGDCK được quy định từ điều 33- 38 Luật chứng khoán 2006, sửa đổi bổ sung 2010. Việc bảo vệ nhà đầu tư, thứ nhất là nằm trong chức năng, nhiệm vụ của SGDCK, TTGDCK, là tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch để bảo đảm cho TTCKTT vận hành công khai, minh bạch, hiệu quả, trật tự, đúng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích nhà đầu tư cũng như các chủ thể trên thị trường. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, SGDCK, TTGDCK có các quyền: ban hành quy chế niêm yết, tổ chức điều hành hoạt động giao dịch chứng khoán, tạm ngừng đình chỉ hoặc hủy bỏ giao dịch chứng khoán theo quy chế để bảo vệ nhà đầu tư khi cần thiết, chấp thuận, hủy bỏ niêm yết, giám sát việc duy trì điều kiện niêm yết, giám sát hoạt động công bố thông tin, cung cấp thông tin thị trường, làm trung gian hòa giải, và thu phí theo quy định. SGDCK, TTGDCK có các nghĩa vụ sau: bảo đảm hoạt động giao dịch tiến hành công khai, công bằng, trật tự, hiệu quả; thực hiện chế độ kiểm toán, kế toán, thống kê, nghĩa vụ tài chính theo quy định, công bố thông tin; cung cấp thông tin và phối hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác điều tra; phối hợp tuyên truyền phổ biến, bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp gây thiệt hại cho thành viên giao dịch trừ trường hợp bất khả kháng. Ngoài ra, để bảo vệ nhà đầu tư nhỏ lẻ, SDGCK đặt ra các yêu cầu với các công ty niêm yết để được niêm yết trên thị trường. Theo đó, như nghị định 58/2012/NĐ-CP quy định, muốn được niêm yết trên sàn Hồ Chí Minh thì phải là có vốn điều lệ 120 tỷ, tỷ lệ lợi nhuận sau thuế tối thiểu là 5%,..trên sàn Hà nội, vốn điều lệ tối thiểu là 30 tỷ, lợi nhuận sau thuế cũng là 5%... [16, Điều 53, Điều 54]. Việc đặt ra các yêu cầu như vậy là để đảm bảo chứng khoán lưu hành trên TTCKTT là những chứng khoán đã được kiểm định, đủ điều kiện niêm yết và giao dịch, sẽ là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, và đã qua thử thách của thị trường. Các điều kiện về niêm yết do sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán ban hành này được coi như bộ lọc để lọc những chứng khoán kém chất lượng, thông

qua đó bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và góp phần giúp thị trường hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững. Các tiêu chuẩn niêm yết thường chú trọng đến thâm niên hoạt động, thành tích lợi nhuận, quy mô cổ phần, và lượng cổ đông. Người đầu tư chứng khoán, dù mạo hiểm vì tính rủi ro vốn có của thị trường chứng khoán, nhưng khi mua chứng khoán trên TTCKTT đã được xem như là họ được bảo vệ tối đa so với mua ở các thị trường chứng khoán khác, vì chứng khoán ở đây đã được sàng lọc. Thứ ba, SGDCK còn bảo vệ nhà đầu tư bằng cách ngoài tuân thủ các quy định của pháp luật, SGDCK còn đặt ra quy chế riêng yêu cầu các CTCK và NĐT khi tham gia TTGDTT phải tuân thủ. Các quy định này sẽ giúp tăng thêm sự bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp, nhỏ lẻ.

2.1.2.3. Quản lý các tổ chức kinh doanh

Để hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư, pháp luật Việt Nam đặt ra các điều kiện chặt chẽ về vốn, về nhân sự, về cơ sở vật chất, thủ tục và các quy định pháp luật mà CTCK phải tuân thủ theo trong suốt quá trình thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán. Các quy định này được cụ thể trong Luật chứng khoán 2006 (đã sửa đổi bổ sung 2010), nghị định 58/2012 hướng dẫn thi hành Luật chứng khoán, thông tư 210/2012 hướng dẫn về thành lập và hoạt động của công ty chứng khoán. Theo đó, theo Điều 59 Luật chứng khoán, công ty chứng khoán phải được UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động (giấy phép). Giấy phép này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, nếu có sự thay đổi hoặc tổ chức lại thì phải được sự chấp thuận của UBCKNN theo quy định tại các Điều 68 và Điều 69 Luật chứng khoán. Trường hợp vi phạm các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 70 Luật chứng khoán thì có thể bị đình chỉ hoạt động hoặc bị thu hồi giấy phép. Để được cấp giấy phép, tổ chức kinh doanh chứng khoán phải có đủ các điều kiện (1)Điều kiện về vốn: công ty chứng khoán phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định, là vốn pháp định cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán 25 tỷ đồng, nghiệp vụ tự doanh chứng khoán 100 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán 165 tỷ đồng, nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ đồng; (2) Về cơ sở vật chất: có trụ sở đảm bảo các yêu cầu như quyền sử dụng trụ sở tối thiểu 01 năm, diện tích

làm sàn giao dịch tối thiểu 150m2, có đủ cơ sở vật chất phục vụ hoạt động kinh doanh, hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định (3) Về nhân sự: Giám đốc phải đáp ứng các yêu cầu nhất định về trình độ, đạo đức được quy định trong Điều 34.3 thông tư 210/2012/TT-BTC, có tối thiểu 03 người hành nghề kinh doanh chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh (4) Về trình tự thủ tục: phải tuân theo các trình tự thủ tục chặt chẽ được quy định trong điều 4, điều 5 thông tư 210/2012/TT-BTC. Ngoài ra trong suốt quá trình hoạt động, công ty chứng khoán phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt về quyền, nghĩa vụ, những điều không được làm nhằm hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích cho nhà đầu tư không chuyên nghiệp như thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh tự doanh của công ty chứng khoán, tách bạch tiền gửi của khách hàng và tài khoản của công ty chứng khoán,...

2.1.2.4. Thanh tra kiểm tra trên TTCKTT

Trước đây các quy định về thanh tra kiểm tra được quy định trong nghị định 144/2003/NĐ-CP [14] về chứng khoán và thị trường chứng khoán và những văn bản có liên quan nhưng rất sơ sài về hoạt động này. Hiện nay hầu hết những thiếu sót này đã được Luật chứng khoán khắc phục bằng nhiều quy định được thể hiện trong các điều từ 108 đến 117. Theo đó, việc thanh tra chứng khoán sẽ được thực hiện với các đối tượng trên TTCKTT là công ty niêm yết, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán, trung tâm lưu ký, thành viên lưu ký, công ty chứng khoán, tổ chức cá nhân tham gia đầu tư trên TTCKTT. Hình thức thanh tra theo chương trình, kế hoạch và đột xuất. Phạm vi thanh tra bao gồm: hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng; hoạt động niêm yết chứng khoán; hoạt động giao dịch chứng khoán; hoạt động kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; Hoạt động công bố thông tin; các hoạt động khác có liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quyết định thanh tra phải bao gồm các nội dung sau đây: căn cứ pháp lý để thanh tra; đối tượng, nội dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra; thời hạn tiến hành thanh tra; trưởng Đoàn thanh tra và các thành viên Đoàn thanh tra. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra. Kết luận thanh tra

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

phải có các nội dung sau đây: Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; Kết luận về nội dung thanh tra; Xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý.

2.1.2.5. Các biện pháp xử lý vi phạm

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam - 8

Thứ nhất, biện pháp xử lý vi phạm hành chính

Trước khi luật chứng khoán ra đời, điều chỉnh vấn đề xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán có văn bản quan trọng là Nghị định số 161/2004/NĐ-CP ngày 7/9/2004 về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định này quy định cụ thể về các hình thức xử phạt và mức xử phạt theo lĩnh vực hoạt động của thị trường, bao gồm vi phạm các quy định về phát hành chứng khoán ra công chúng, về niêm yết chứng khoán trên trung tâm giao dịch chứng khoán, về hoạt động kinh doanh, đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán, về chế độ báo cáo công bố thông tin, về cản trở việc thanh tra, kiểm tra. Hiện nay theo quy định tại của Luật chứng khoán 2006 [29], các quy định nói trên vẫn tiếp tục được kế thừa, đồng thời bổ sung thêm hai quy định mới về xử lý hành vi vi phạm về công ty đại chúng [29, Điều 122] và xử lý hành vi vi phạm về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán [29, Điều 124] Sự xuất hiện của hai quy định mới này xuất phát từ việc ban hành các quy định về công ty đại chúng và tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán.

Sau đó để cụ thể hóa hơn về thẩm quyền, mức xử phạt với từng hành vi vi phạm, Chính phủ ban hành Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán số 36/2007 ngày 8/3/2007, sau đó lại tiếp tục được thay thế bằng nghị định 85/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010, và đến nay được thay thế bằng nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013, cùng với thông tư 217/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 hướng dẫn việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc ban hành nghị định 108/2013/NĐ-CP [17] là một bước tiến mới cho TTCKTT, tăng tính răn đe hơn hẳn trước đó, và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Từ các văn bản này, nhìn chung có một số nội dung chính về xử phạt hành chính trên TTCKTT. Đó là, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính nêu trên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo hình thức xử phạt chính, hình phạt bổ sung, và biện pháp khắc phục hậu quả. Trong đó, hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền; hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: đình chỉ hoạt động; thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, chứng chỉ hành nghề chứng khoán; tịch thu toàn bộ các khoản thu từ việc thực hiện các hành vi vi phạm mà có và số chứng khoán được sử dụng để vi phạm. Các biện pháp khắc phục hậu quả gồm: buộc chấp hành quy định của pháp luật; buộc huỷ bỏ, cải chính những thông tin sai lệch, thông tin sai sự thật; buộc phải thu hồi số chứng khoán đã phát hành, hoàn trả tiền đặt cọc hoặc tiền mua CK cho các nhà đầu tư.

Về phạt xử lý vi phạm trên TTCKTT, có một số nội dung chính. Đó là, thứ nhất, mức phạt tiền tối đa đối với tổ chức vi phạm là 2 tỷ đồng và đối với cá nhân là 1 tỷ đồng. Riêng 3 hành vi gồm: xác nhận hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có sự giả mạo, chào bán chứng khoán ra công chúng khi chưa có giấy chứng nhận chào bán và tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán trái quy định pháp luật, NĐ108 quy định mức phạt tiền theo phần trăm (từ 1 - 5% tổng số tiền huy động trái pháp luật) và theo số lần (từ 1 - 5 lần khoản thu trái pháp luật) phù hợp với quy định của Luật Chứng khoán.

Thứ hai, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán là của Chánh Thanh tra UBCK và Chủ tịch UBCK, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của UBCK. Theo đó, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của UBCK được quyền phạt tối đa 100 triệu đồng đối với tổ chức, 50 triệu đồng đối với cá nhân...

Thứ ba, các quy định hiện hành quy định rất đa dạng các hành vi vi phạm trên TTCKTT và đặt ra chế tài xử phạt tương ứng, kịp thời xử lý các vi phạm ngày càng phức tạp trên TTCKTT, bảo vệ kịp thời nhà đầu tư không chuyên nghiệp như các vi phạm và chế tài xử phạt với các công ty niêm yết về công bố thông tin, về chào bán chứng khoán; với công ty chứng khoán trong việc công bố thông tin, thực hiện các giao dịch với và cho nhà đầu tư,...

Về chào mua công khai, ngoài xử phạt đối tượng là cá nhân, tổ chức thực hiện chào mua công khai không đúng quy định, NĐ108 quy định xử phạt cả đối tượng là CTCK làm đại lý chào mua công khai trong trường hợp không hướng dẫn cá nhân, tổ chức thực hiện chào mua công khai theo đúng quy định, hoặc không Thứ tư, về các biện pháp khắc phục hậu quả được xây dựng trên tinh thần, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, biện pháp xử lý dân sự

Hoạt động của thị trường chứng khoán còn nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật dân sự, nó được áp dụng thường xuyên và nhất là các chế định về hợp đồng dân sự như việc ký kết các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, hợp đồng mở tài khoản ký kết giữa công ti chứng khoán với khách hàng, hợp đồng mở tài khoản kí kết giữa công ti chứng khoán với khách hàng, hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên lưu ký là ngân hàng và khách hàng,...

Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều biện pháp để hỗ trợ, giúp nhà đầu tư thực hiện quyền lợi của mình khi tham gia vào TTCKTT như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, đặt cọc, kí cược, kí quỹ, phạt vi phạm,...Hiện nay, một số biện pháp đã được áp dụng trong hoạt động chứng khoán như: cầm cố chứng khoán để cho vay tiền của các ngân hàng thương mại, kí quỹ trong giao dịch chứng khoán. Ví dụ như quy định về tỷ lệ ký quỹ, theo Quyết định số 09/QĐ- UBCK ngày 8/1/2013 “Tỷ lệ ký quỹ tối thiểu khi giao dịch chứng khoán là 50% và tỷ lệ ký quỹ duy trì (margin) là 30%” [6, Điều 16, Khoản 1, Điều 16, Khoản 2]. Các biện pháp này đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các nhà đầu tư không chuyên nghiệp thực hiện các quyền của mình là tham gia thị trường chứng khoán và thực hiện các giao dịch chứng khoán mà bớt bị cản trở hơn bởi rào cản về khả năng tài chính hạn hẹp. Như với giao dịch ký quỹ, nhà đầu tư không chuyên nghiệp với vốn đầu tư hạn hẹp, khi đặt lệnh mua chứng khoán, không cần phải có ngay số tiền tương đương với 100% giá trị giao dịch, mà chỉ cần trả tỷ lệ ban đầu là 50% số tiền giao dịch, và được vay của công ty chứng khoán phần còn lại. Như vậy nhà đầu tư không chuyên có thể có nhiều cơ hội đầu tư hơn, theo đó thì khả năng thu hồi được lời nhiều hơn, chỉ với vốn đầu tư không nhiều ban đầu.

Thứ ba, biện pháp xử lý hình sự

LCK đã quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số hành vi vi phạm trong hoạt động CK và thị trường CK, cụ thể là:

- Hành vi giả mạo hồ sơ đăng ký chào bán CK ra công chúng [29, Điều 121, Khoản 1] và giả mạo hồ sơ niêm yết CK [29, Điều 123, Khoản 1];

- Hành vi cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật, sử dụng thông tin ngoài Bản cáo bạch để thăm dò thị trường, phân phối chứng khoán không đúng với nội dung của đăng ký chào bán về loại chứng khoán, thời hạn phát hành và khối lượng tối thiểu theo quy định, thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng không đúng nội dung và thời gian quy định [29, Điều 121, Khoản 2];

- Hành vi lợi dụng chức trách, nhiệm vụ để cho mượn tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng; cầm cố hoặc sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng uỷ thác [29, Điều 125, Khoản 3];

- Hành vi sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán; tiết lộ thông tin hoặc đề nghị người khác mua, bán chứng khoán [29, Điều 126, Khoản 1];

- Hành vi thao túng giá chứng khoán, tạo ra giá chứng khoán giả tạo, giao dịch giả tạo [29, Điều 126, Khoản 3];

- Hành vi cố ý cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch hoặc tiêu huỷ tài liệu giao dịch để lừa đảo; dụ dỗ khách hàng mua, bán CK [29, Điều 126, Khoản 4];

- Hành vi tạo dựng và tuyên truyền thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường chứng khoán, gây lũng đoạn thị trường giao dịch chứng khoán [29, Điều 126, Khoản 5];

- Hành vi vi phạm quy định về thời hạn xác nhận số liệu; chuyển giao chứng khoán; sửa chữa giả mạo chứng từ trong thanh toán; vi phạm chế độ bảo quản chứng khoán; chế độ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán; chế độ bảo mật tài khoản lưu ký của khách hàng; không cung cấp đầy đủ, kịp thời danh sách người nắm giữ chứng khoán cho tổ chức phát hành [29, Điều 127, Khoản 1];

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nêu trên phải căn cứ vào quy định của BLHS. Trước đây, BLHS và các văn bản hướng dẫn thi

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí