Bảo Vệ Bằng Các Biện Pháp Quản Lý Và Xử Lý Vi Phạm Đối Với Các Chủ Thể Trên Thị Trường

phong tỏa không theo lệnh của nhà đầu tư, không có căn cứ pháp lý, khiến cho giao dịch mua bán chứng khoán của nhà đầu tư không thể thực hiện được

Thứ tư, tiền gửi của nhà đầu tư trong tài khoản chứng khoán bị sử dụng sai mục đích hoặc không theo lệnh của nhà đầu tư: Tiền gửi này của nhà đầu tư do các công ty chứng khoán hoặc Ngân hàng thương mại quản lý trong tài khoản của họ. Vì thế không loại trừ có trường hợp xẩy ra khi tiền gửi của nhà đầu tư được các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại sử dụng để mang lại lợi nhuận cho chính họ như mua bán chứng khoán tự doanh khi giá thấp, bán ra khi giá cao để hưởng chênh lệch, cho vay hưởng lại hoặc sử dụng theo mục đích khác.

Thứ năm, tổ chức niêm yết tự ý tăng vốn điều lệ làm giảm giá trị cổ phiếu của nhà đầu tư là cổ đông hiện hữu. Việc tăng vốn điều lệ luôn làm giảm giá trị của cổ phiếu. Nếu việc tăng vốn này không được sự đồng ý của đa số cổ đông thì đây chính là hình thức làm giảm giá trị tài sản của cổ đông

Thứ sáu, các hành vi thao túng thị trường bằng cách tạo ra cung cầu giả tạo làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán, gây thiệt hại cho nhà đầu tư không chuyên. Việc này được thực hiện bằng việc một chủ thể mở nhiều tài khoản để cùng lúc giao dịch cùng một loại cổ phiếu, tạo ra cung hay cầu ảo đối với một loại cổ phiếu nào đó. Các nhà đầu tư không chuyên vốn là những chủ thể không am hiểu nhiều về TTCKTT, rất dễ bị ảnh hưởng bởi xu hướng này và không có sự phân tích kỹ càng, chính xác như những nhà đầu tư không chuyên, vì thể họ sẽ ngay lập tức cuốn theo sự tăng giảm này mà mua hoặc bán chứng khoán. Trong khi nhu cầu này không đúng với bản chất giá trị thực của chứng khoán, nên khi đợt tạo giá này dừng lại, người chịu thiệt hại sẽ chính là những nhà đầu tư tham gia vào đợt mua bán này.

Thứ bẩy, tài khoản giao dịch chứng khoán do các NĐT mở tại CTCK là tài sản quan trọng của NĐT, trong tài khoản có tiền và chứng khoán của NĐT. Các khoản cổ tức phát sinh từ chứng khoán của NĐT sẽ được CTCK chuyển vào tài khoản này cho NĐT. Tài khoản giao dịch của NĐT được quản lý bởi CTCK. Do vấn đề tài chính của CTCK mà số cổ tức này bị mất hoặc bị phong tỏa.

1.4.2.2. Bảo vệ bằng các biện pháp quản lý và xử lý vi phạm đối với các chủ thể trên thị trường

(i) Quản lý việc chào bán chứng khoán ra công chúng, phát hành riêng lẻ

Khi nhà đầu tư không chuyên nghiệp mua các chứng khoán được chào bán tức là nhà đầu tư đã chuyển giao một khoản tiền cho tổ chức phát hành và đổi lại, nhà đầu tư được sở hữu các chứng khoán – bằng chứng về quyền tài sản (quyền sở hữu vốn trong công ty cổ phần hoặc quyền chủ nợ) và được hưởng những lợi ích mà chứng khoán đó mang lại. Chất lượng và giá trị của chứng khoán hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả hoạt động của tổ chức phát hành và sự biến động của thị trường. Tuy nhiên, nhà đầu tư không thể trực tiếp kiểm tra chất lượng và đánh giá được giá trị của chứng khoán như đối với các loại hàng hoá thông thường khác mà chỉ căn cứ vào các thông tin liên quan đến tổ chức phát hành và đợt phát hành để đánh giá giá trị của chứng khoán khi quyết định đầu tư. Do đó, nếu tổ chức phát hành hoạt động kém hiệu quả hoặc cố ý đưa ra những thông tin không chính xác về tình hình tài chính và đợt phát hành thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư nói riêng cũng như sự an toàn và hiệu quả của thị trường chứng khoán nói chung. Chính vì vậy, pháp luật đã đặt ra những quy định nhằm quản lý chặt chẽ việc chào bán chứng khoán ra công chúng, và phát hành riêng lẻ của công ty niêm yết.

Thứ nhất, về chào bán chứng khoán ra công chúng, ở trên TTCKTT chính là việc chào bán thêm chứng khoán ra công chúng của công ty niêm yết. Loại chào bán này thường được các công ty niêm yết thực hiện khi muốn tăng vốn điều lệ hoặc vốn tự có trong quá trình kinh doanh để mở rộng quy mô kinh doanh hoặc để thực hiện một dự án kinh doanh cần nhiều vốn mà ở thời điểm hiện tại nguồn vốn sẵn có của công ty không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh đó. Ở mỗi nước có những qui định riêng cho việc phát hành thêm chứng khoán ra công chúng này. Tuy nhiên, để phát hành chứng khoán ra công chúng thông thường tổ chức phát hành phải đảm bảo năm điều kiện cơ bản sau. Thứ nhất, về qui mô vốn: tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, và sau khi phát hành phải đạt được một tỷ lệ phần trăm nhất định về vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia. Thứ hai, về tính liên tục của hoạt

động sản xuất kinh doanh: công ty được thành lập và hoạt động trong vòng một thời gian nhất định (thường khoảng từ 3 đến 5 năm). Thứ ba, về đội ngũ quản lý công ty: công ty phải có đội ngũ quản lý tốt, có đủ năng lực và trình độ quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. Thứ tư, về hiệu quả sản xuất kinh doanh: công ty phải làm ăn có lãi với mức lợi nhuận không thấp hơn mức qui định và trong một số năm liên tục nhất định (thường từ 2-3 năm). Thứ năm, về tính khả thi của dự án: công ty phải có dự án khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường cho phép một số trường hợp ngoại lệ, tức là có những doanh nghiệp sẽ được miễn giảm một số điều kiện nêu trên, ví dụ: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, hạ tầng cơ sở có thể được miễn giảm điều kiện về hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Thứ hai, về phát hành chứng khoán riêng lẻ của công ty niêm yết (Private Placement), là việc công ty niêm yết chào bán chứng khoán của mình cho phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật công ty. Chứng khoán phát hành dưới hình thức này không phải là đối tượng được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán sơ cấp. Luật pháp các nước cũng có những quy định cụ thể đối với hình thức phát hành riêng lẻ. Ví dụ như ở Mỹ, trong trường hợp phát hành riêng lẻ thì không được quảng cáo bằng các phương tiện thông tin đại chúng cũng như hội thảo rộng rãi và nếu các nhà đầu tư tham gia mua không mang tính chuyên nghiệp thì số lượng không được vượt quá 35 người và phải cử ra một đại diện mua. Tại Thái Lan, tổng số tiền huy động qua phát hành riêng lẻ không được quá 20 triệu Bath và cho dưới 35 người. Các doanh nghiệp niêm yết thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bởi một số nguyên nhân sau: (1) số lượng vốn cần huy động nhỏ mà nếu chào bán chứng khoán ra công chúng sẽ phải tải số chi phí chào bán quá cao trong khi đó giá vốn huy động được sẽ trở nên quá đắt đỏ, mục đích chọn phát hành riêng lẻ này để giảm chi phí; (2) Công ty niêm yết phát hành cổ phiếu nhằm mục đích duy trì, củng cố các mối quan hệ trong kinh doanh. Ví dụ như

phát hành cổ phiếu cho các nhà cung cấp hay tiêu thụ sản phẩm, phát hành cho các đối tác... hoặc duy trì củng cố mối quan hệ giữa công ty và người làm công trong công ty bằng cách phát hành cho cán bộ công nhân viên chức của công ty; (3) để nhằm huy động vốn nhanh với chi phí thấp [37].

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam - 5

Thông thường chào bán chứng khoán riêng lẻ chỉ hướng tới các nhà đầu tư tổ chức, các nhà đầu tư chuyên nghiệp, tuy nhiên ở mỗi quốc gia loại nhà đầu tư tham gia mua chứng khoán trong chào bán riêng lẻ có thể có những biến dạng nhất định, và ở nhiều nơi nhà đầu tư không chuyên nghiệp cũng là những đối tượng của việc chào bán này. Ví dụ như ở Úc trước đây, chào bán cổ phiếu phổ thông (common shares) riêng lẻ chỉ được thực hiện với các nhà đầu tư có tổ chức nhưng từ 7/1987 đến nay việc chào bán riêng lẻ cổ phiếu có quyền biểu quyết còn được tiến hành đối với cả khách hàng của các công ty môi giới chứng khoán nếu việc phát hành đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Điều kiện đó gồm (1) Khách hàng phải được công ty môi giới khuyến nghị mua cổ phiếu được phát hành (2) Giá bán cho các khách hàng này không được quá thấp so với giá của cổ phiếu đó trên thị trường; (3)Thông tin về các hoạt động của công ty phát hành phải được gửi tới tất cả các khách hàng của tổ chức môi giới [24, tr.539]. Ở Việt nam việc chào bán chứng khoán riêng lẻ lại chủ yếu cho các cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Đây chính là đối tượng nhà đầu tư không chuyên nghiệp mà luận văn đang đề cập tới.

(ii) Quản lý thị trường giao dịch chứng khoán

Để quản lý thị trường giao dịch chứng khoán vận hành phát triền trong khuôn khổ pháp luật và tạo điều kiện cho các hoạt động giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán được thành lập để tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán. Các tổ chức này không sở hữu chứng khoán, không mua bán các loại chứng khoán, mà chỉ cung cấp các dịch vụ kỹ thuật, tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chứng khoán, giám sát các hoạt động giao dịch để bảo đảm chúng diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Đây là hoạt động kinh doanh mà không phải chủ thể nào, công ty nào cũng kinh doanh được. Ở các nước trên thế giới, ví dụ như Nga, Ucraina, hoạt động tổ chức thị trường được coi là hoạt động kinh doanh

chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán. Chủ thể muốn tiến hành hoạt động này (thành lập Sở giao dịch chứng khoán) thì phải đáp ứng đủ các điều kiện ngặt nghèo của pháp luật và phải được cơ quan quản lý chuyên ngành cấp phép.

Sở giao dịch chứng khoán hiện nay trên thế giới có ba hình thức sở hữu:(1)Hình thức sở hữu nhà nước: Sở giao dịch chứng khoán là tổ chức thuộc sở hữu của Nhà nước, do Chính phủ thành lập ra, chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước thông qua các cơ quan quản lý chuyên ngành (ví dụ như sở giao dịch chứng khoán Warsaw, Istanbul..). Mô hình này rất thích hợp đối với các thị trường chứng khoán mới nổi vì Sở giao dịch sẽ hoạt động vì những mục tiêu và nhiệm vụ mà Nhà nước đặt ra mà không nghĩ đến vấn đề lợi nhuận đơn thuần, thông qua đó thúc đẩy các hoạt động giao dịch hiệu quả với chi phí thấp (2) Hình thức sở hữu cổ phần: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần. Cổ đông là các công ty chứng khoán thành viên, các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm và các tổ chức khác (ví dụ như sở giao dịch chứng khoán Australia). Nhà nước cũng có thể nắm giữ một số cổ phần nhất định trong công ty cổ phần này. Mục tiêu hoạt động của Sở giao dịch là lợi nhuận. Ưu điểm của mô hình này là nó có nguồn kinh phí dồi dào để đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giao dịch, qua đó cung ứng dịch vụ với chất lượng tốt nhất. (3)Hình thức sở hữu thành viên: Theo hình thức này, Sở giao dịch chứng khoán là tổ chức do các thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu (ví dụ như sở giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, New York, Tokyo, Thái lan,..). Hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán này là phi lợi nhuận và chỉ nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc kinh doanh của các thành viên. Các thành viên vừa là người sở hữu vừa là người trực tiếp kinh doanh tại Sở giao dịch. Vì vậy, ưu điểm chủ yếu của mô hình này là các thành viên của Sở giao dịch có thể tiến hành giao dịch với mức phí rẻ hơn rất nhiều [35, tr.128].

Trung tâm giao dịch chứng khoán cũng tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán tập trung nhưng ở mức độ đơn giản hơn. Mô hình này được áp dụng trong quá trình quá độ của thị trường chứng khoán khi mới đi vào hoạt động. Khi thị trường chứng khoán phát triển đến mức độ nhất định và có đủ điều kiện cần thiết thì trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ được chuyển thành sở giao dich chứng khoán.

(iii) Quản lý các tổ chức kinh doanh chứng khoán

Các tổ chức kinh doanh chứng khoán bao gồm các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Các chủ thể này tham gia vào thị trường chứng khoán với nhiều tư cách: vừa là nhà môi giới chứng khoán, giúp các NĐT thực hiện việc mua, bán chứng khoán để hưởng hoa hồng; vừa trực tiếp tham gia mua bán chứng khoán để hưởng lợi. Điều đó có thể dẫn đến khả năng công ty chứng khoán vì quyền lợi của mình mà làm thiệt hại đến lợi ích của NĐT là khách hàng của công ty. Vì vậy, pháp luật có những quy định nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán. Khi thực hiện các hoạt động của mình công ty chứng khoán luôn phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, ưu tiên quyền lợi của khách hàng lên trên quyền lợi của công ty và không được thực hiện các hành vi bị cấm trên TTCKTT như hành vi nội gián, lũng đoạn thị trường, tạo dựng thông tin sai sự thật..Ngoài ra so với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế, công ty chứng khoán giống như các định chế tài chính trung gian khác thường bị rằng buộc bởi những quy định tương đối chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập, hoạt động, giải thể, phá sản, thể hiện sự can thiệp của cơ quan công quyền vào đời sống kinh doanh chứng khoán của CTCK. Ví dụ như về việc thành lập, với các nước có TTCK phát triển như Mỹ áp dụng mô hình đăng ký kinh doanh chứng khoán, theo đó các công ty chứng khoán phải thỏa mãn được những tiêu chí nhất định, thì đăng ký với cơ quan nhà nước là sẽ được kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên các tiêu chí này đều rất rõ ràng, minh bạch, nhằm bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, và suốt quá trinh hoạt động, công ty chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước với các giao dịch chứng khoán. Còn ở các quốc gia có thị trường chứng khoán chưa phát triển hoặc giai đoạn mới hình thành như ở Việt nam, Thái lan, Trung Quốc,.. thì áp dụng mô hình cấp phép kinh doanh, các chủ thể muốn kinh doanh chứng khoán thì phải thỏa mãn những điều kiện vật chất nhất định về vốn, nhân sự, cơ sở vật chất và phải tuân theo trình tự thủ tục luật định. Để hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư, Nhà nước đưa ra những điều kiện chặt chẽ và thẩm định kỹ hồ sơ khi thành lập công ty chứng khoán. Ví dụ như theo luật chứng khoán Trung Quốc 1998, thành lập công ty chứng khoán đa năng yêu cầu về vốn mức thấp nhất là

500 triệu nhân dân tệ, công ty môi giới chứng khoán mức vốn đăng ký thấp nhất là 50 triệu nhân dân tệ, nhân viên phải có tư cách hành nghề chứng khoán, phải thực hiện riêng biệt nghiệp vụ môi giới chứng khoán và tự doanh chứng khoán [53, Điều 121, Điều 122, Điều 132]. Sự can thiệp này là cần thiết bởi lẽ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là rất cao. Công ty chứng khoán không chỉ đơn thuần cung ứng dịch vụ về chứng khoán trên thị trường mà bản thân nó cũng là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, có lợi thế hơn nhiều so với các nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường. Việc quản lý kiểm soát của nhà nước ở chừng mực nào đó các vấn đề này sẽ tạo ra môi trường kinh doanh chứng khoán minh bạch, công bằng, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư không chuyên nghiệp mà vẫn đảm bảo được quyền tự do kinh doanh của công ty chứng khoán.

(iiii) Quản lý thông qua việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

Thứ nhất là, quản lý thông qua công tác thanh tra, kiểm tra.

Thanh tra chứng khoán là hoạt động quản lý nhà nước nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ nhà đầu tư khỏi những rủi ro phát sinh từ những hoạt động không đúng đắn của các đối tượng thanh tra.

Có thể thấy sự triển khai hoạt động này của Nhà nước không ngoài những mục tiêu cơ bản sau đây:

Một là, kịp thời phát hiện những hành vi, vi phạm pháp luật hoặc có nguy cơ xâm phạm đến quyền lợi của nhà đầu tư không chuyên nghiệp.

Hai là, ngăn chặn phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường, thông qua cơ chế giám sát chặt chẽ và thường xuyên

Ba là, tìm kiếm bằng chứng để xử lý vi phạm, và giải quyết các tranh chấp xảy ra, dựa trên kết quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát

Bốn là, nắm bắt được tình hình hoạt động của thị trường để đưa ra các quy định phù hợp và các biện pháp quản lý hiệu quả

Vì phải đảm bảo nhiều mục tiêu như vậy nên hoạt động này có thể diễn ra nhiều thời điểm, bằng cơ chế kiểm tra bất thường đột xuất, hoặc bằng chế độ thanh tra, kiểm tra định kỳ theo kế hoạch định sẵn.

Thứ hai là, bảo vệ thông qua các biện pháp xử lý vi phạm

Các vi phạm trên TTCKTT ở đây là những hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của Nhà nước về chứng khoán, xâm hại tới các quyền và lợi ích của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trong quan hệ với các chủ thể khác trên TTCKTT được pháp luật chứng khoán xác lập và bảo vệ mà tùy vào tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính, dân sự hay truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức xử lý vi phạm là các biện pháp cách thức mà Nhà nước tác động tới các chủ thể có hành vi vi phạm này, buộc các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ trên TTCKTT phải tuân thủ các quy định pháp luật nhằm tạo ra TTCKTT vận hành an toàn hiệu quả bảo đảm công bằng minh bạch với mọi chủ thể tham gia đầu tư chứng khoán.

Mục tiêu cơ bản của nhóm những quy định này là: thứ nhất, ngăn ngừa các hành vi vi phạm thông qua việc trừng phạt bằng các chế tài đối với các hành vi đó. Thứ hai, khắc phục các thiệt hại xẩy ra cho nhà đầu tư không chuyên nghiệp thông qua việc áp dụng chế tài vi phạm hợp đồng hoặc chế tài buộc bồi thường thiệt hại.

Các hình thức xử lý vi phạm bao gồm: Thứ nhất, biện pháp xử lý hành chính

Vi phạm hành chính trên TTCKTT là những hành vi của các cá nhân, tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán là việc áp dụng các chế tài đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính, bao gồm hình thức xử phạt chính, hình thức phạt bổ sung, các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây ra nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại trong lĩnh vực chứng khoán.

Trong lĩnh vực chứng khoán, vi phạm hành chính có thể biểu hiện dưới nhiều dạng, trong đó có những vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp

Xem tất cả 145 trang.

Ngày đăng: 30/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí